Kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan
| Mục tiêu cụ thể kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 Nhiều kỹ thuật được áp dụng nhằm giảm phát thải khí mê-tan |
- PV: Thưa ông/bà, mục tiêu cụ thể của Kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 là gì và kế hoạch này ưu tiên tập trung vào những nguồn phát thải lớn nào của Việt Nam (như nông nghiệp, quản lý chất thải rắn đô thị, hay khai thác than/dầu khí) để đảm bảo tính hiệu quả?
- PGS.TS. Võ Hữu Công: Theo Quyết định 942/QĐ‑TTg ngày 05/8/2022, Việt Nam đặt mục tiêu giảm phát thải khí mê-tan ít nhất 30% so với mức năm 2020 đến năm 2030. Cụ thể, lượng khí mê-tan tính theo CO₂-e tới năm 2030 không vượt quá khoảng 77,9 triệu tấn CO₂-e, bao gồm các nguồn từ trồng trọt (canh tác) không vượt quá 30,7 triệu tấn CO₂-e; từ chăn nuôi không vượt quá 15,2 triệu tấn CO₂-e; từ quản lý chất thải rắn + xử lý nước thải không vượt quá 17,5 triệu tấn CO₂-e; từ khai thác dầu/gas 8,1 triệu tấn CO₂-e, than 2,0 triệu tấn CO₂-e, nhiên liệu hóa thạch 0,8 triệu tấn CO₂-e.
![]() |
| PGS.TS. Võ Hữu Công (phải) và đồng nghiệp Khoa Tài nguyên và Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam xử lý chất thải chăn nuôi lợn, sử dụng chăm cây bưởi da xanh cho hiệu quả cao tại xã Hoài Ân, tỉnh Gia Lai |
Về nguồn phát thải ưu tiên, Việt Nam tập trung hàng đầu vào ngành nông nghiệp (trồng lúa, chăn nuôi) do chiếm tỉ lệ phát thải lớn nhất, thông qua việc cải thiện hoạt động chăn nuôi, sử dụng phân bón và canh tác lúa nước. Tiếp đến là quản lý chất thải rắn đô thị bằng cách tối ưu hóa công tác thu gom, xử lý để giảm phát thải từ bãi chôn lấp. Cuối cùng là ngành năng lượng, tập trung giảm thiểu phát thải khí mê-tan trong quá trình khai thác, vận chuyển và xử lý than, dầu khí.
- PV: Kế hoạch giảm phát thải mê-tan lần này có những điểm mới hoặc đột phá nào so với các chính sách môi trường trước đây?
- PGS.TS.Võ Hữu Công: Kế hoạch lần này là một trong những “đòn bẩy” đặc biệt vì nó gắn với cam kết quốc tế Global Methane Pledge (GMP) mà Việt Nam đã tham gia, thể hiện ở việc xác định rõ mục tiêu phần trăm cụ thể (cắt gỉam 30% so với 2020) và phân ngành rõ ràng. Sự phân bổ cụ thể theo từng nguồn phát thải lớn và theo từng năm (2025, 2030) giúp tăng tính khả thi và theo dõi được.
Điểm tiến bộ của kế hoạch là việc chú trọng đưa vào các cơ chế khuyến khích công nghệ thu hồi và sử dụng mê-tan (như mô hình biogas trong chăn nuôi, thu hồi khí từ bãi chôn lấp và từ khai thác than/khí), thay vì chỉ xử lý chất thải thông thường như trước đây. Điều này được nhấn mạnh hơn qua việc kết hợp đồng bộ các giải pháp kinh tế - kỹ thuật - chính sách, bao gồm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi phương thức canh tác lúa và ứng dụng công nghệ thu mê-tan.
- PV: Việc thực hiện Kế hoạch phụ thuộc rất lớn vào các tỉnh, thành phố. Chính phủ có cơ chế hỗ trợ, hướng dẫn, hay phân bổ nguồn lực cụ thể nào để giúp các địa phương (đặc biệt là vùng nông nghiệp và chăn nuôi) có thể áp dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật và tuân thủ mục tiêu giảm phát thải?
- PGS.TS.Võ Hữu Công: Để thực hiện kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan, Quyết định 942/QĐ-TTg quy định cơ chế huy động vốn từ ngân sách nhà nước, vốn doanh nghiệp và các nguồn hợp pháp khác, đồng thời khuyến khích sự tham gia của phân khúc tư nhân và hợp tác quốc tế. Về trách nhiệm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải mê-tan trong canh tác và chăn nuôi, đồng thời các tỉnh/thành phố có trách nhiệm lồng ghép nội dung giảm mê-tan vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
![]() |
| PGS.TS Võ Hữu Công, Giảng viên cao cấp, Phó Trưởng khoa Tài nguyên và Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam |
Các giải pháp kỹ thuật trọng tâm bao gồm việc phát triển mô hình tưới luân phiên thay ngập (AWD) trong canh tác lúa, ứng dụng công nghệ biogas để xử lý phụ phẩm chăn nuôi và thu hồi khí tại các bãi chôn lấp chất thải đô thị. Cuối cùng, một cơ chế hướng dẫn và giám sát chặt chẽ được thiết lập, yêu cầu các bộ ngành và địa phương phải báo cáo, đánh giá việc thực hiện hằng năm theo quy định.
- PV: Thưa ông, Việt Nam có những chính sách tài chính xanh cụ thể nào để thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp vào các dự án giảm mê-tan không?
- PGS.TS. Võ Hữu Công: Chính sách và cơ chế tài chính cho việc giảm phát thải khí mê-tan (CH₄) tại Việt Nam được xây dựng trên nhiều trụ cột. Cụ thể, Quyết định 942/QĐ‑TTg về “Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030” phê duyệt kế hoạch quốc gia nhằm giảm phát thải mê‐tan trong các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, xử lý chất thải rắn & nước thải, khai thác dầu khí, than, nhiên liệu hóa thạch.
Mục tiêu: tới năm 2025 giảm ít nhất ~13,34% so với mức năm 2020; tới năm 2030 giảm ít nhất ~30% so với mức năm 2020. Văn bản cũng nêu rõ “huy động nguồn lực tài chính” và “cơ chế khuyến khích công nghệ” để thu hồi/chuyển đổi mê‐tan. Đây là khung chính sách quan trọng, nhưng còn chung chung về nguồn vốn và ưu đãi cụ thể dành cho doanh nghiệp.
Sự phát triển của thị trường tài chính xanh và tín dụng xanh được xác định là hướng đi chiến lược để huy động vốn cho nền kinh tế xanh, nhưng dòng vốn này vẫn ở mức "huy động chung" mà chưa có ưu đãi rõ ràng riêng cho các dự án giảm mê-tan. Cơ chế mạnh mẽ nhất là thị trường tín chỉ carbon theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 06/2022/NĐ-CP, mở ra cơ hội cho doanh nghiệp tạo và giao dịch tín chỉ từ các dự án giảm mê-tan; tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có ưu đãi riêng biệt cho các dự án nông nghiệp hay chăn nuôi.
Cuối cùng, các ngân hàng, tổ chức tài chính tại Việt Nam cũng bắt đầu phát triển các sản phẩm tín dụng xanh, dành cho các dự án bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, tái tạo năng lượng. Nếu doanh nghiệp có dự án giảm mê‐tan rõ ràng (ví dụ xử lý chất thải chăn nuôi, biogas, thu hồi mê‐tan) thì có thể tiếp cận loại hình tín dụng này song vẫn chưa có thông tin công khai nhiều về ưu đãi chỉ dành riêng cho mê‐tan.
Ngoài ra, việc Việt Nam tham gia các cam kết quốc tế như Global Methane Pledge và kế hoạch mê‐tan có nêu “huy động nguồn lực, hợp tác quốc tế”, tạo lợi thế nếu có nguồn vốn ODA, vốn quốc tế, hợp tác công-tư.
- PV: Cơ chế giám sát và đánh giá nào sẽ được áp dụng để theo dõi tiến độ, đo lường chính xác lượng mê-tan giảm được và điều chỉnh kế hoạch nếu cần thiết trong giai đoạn đến năm 2030?
- PGS.TS.Võ Hữu Công: Việt Nam đã thiết lập một khung giám sát và đánh giá chặt chẽ để đảm bảo thực hiện hiệu quả Kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan. Theo Quyết định 942/QĐ‑TTg quy định Bộ NN&MT (và các bộ ngành liên quan) có nhiệm vụ tổ chức hàng năm việc đánh giá phát thải mê-tan từ các nguồn trồng trọt, chăn nuôi, chất thải, than/dầu khí, nhiên liệu hóa thạch; tổng hợp báo cáo và báo cáo Thủ tướng nếu cần.
![]() |
| PGS.TS. Võ Hữu Công (giữa) cùng các nhà khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam ứng dụng mô hình thu gom xử lý, sử dụng chất thải rắn chăn nuôi lợn cho cây trồng |
Về mặt kỹ thuật, Việt Nam áp dụng Hệ thống Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định (MRV) quốc gia cho khí nhà kính (bao gồm CH₄) theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 06/2022/NĐ-CP, sử dụng hệ thống kiểm kê khí nhà kính quốc gia theo hướng dẫn IPCC 2006/2019 để tính toán lượng CH₄ giảm cho từng ngành.
Để đảm bảo tính minh bạch và chính xác, Bộ NN&MT ban hành hệ thống chỉ số và phương pháp tính cho từng ngành. Hệ thống này được áp dụng chi tiết để định lượng mê-tan phát sinh từ ruộng lúa (dựa trên phương pháp canh tác và thời gian ngập nước), từ chăn nuôi (dựa trên quản lý chất thải, công nghệ biogas và thu hồi khí), cũng như từ lĩnh vực chất thải rắn & nước thải và các nguồn phát thải năng lượng như dầu khí và khai thác than.
Ngoài ra, các dự án có thể sử dụng phương pháp tính của thị trường carbon như CLEAN, ACM0016 (biogas), AMS-III.G (giảm CH₄ từ xử lý phân chuồng).
Song song, một cơ sở dữ liệu số quốc gia về phát thải và giảm phát thải KNK đang được xây dựng để phục vụ điều hành chính sách, thương mại tín chỉ carbon và báo cáo quốc tế. Cho phép cập nhật, truy xuất số liệu, minh bạch hóa dữ liệu để phục vụ: điều hành chính sách, thương mại tín chỉ carbon trong nước, báo cáo quốc tế (UNFCCC, NDC).
Cơ chế đánh giá và điều chỉnh kế hoạch được thực hiện theo 3 tầng (hàng năm, giữa kỳ 2025-2026, và cuối kỳ 2030), với điểm nhấn là đánh giá giữa kỳ nhằm rà soát và điều chỉnh các cơ chế tài chính, công nghệ nếu tốc độ giảm chậm.
Một là, đánh giá hàng năm. Các bộ, ngành, địa phương báo cáo tiến độ thực hiện Kế hoạch giảm mê-tan. Bộ NN&MT tổng hợp và kiến nghị điều chỉnh về mục tiêu, giải pháp nếu tốc độ giảm chậm.
Hai là, đánh giá giữa kỳ (2025–2026). Rà soát mức độ đạt mục tiêu 2025 và khả năng hoàn thành mục tiêu 2030. Có thể điều chỉnh: cơ chế tài chính, công nghệ ưu tiên, phân bổ nhiệm vụ giữa các ngành
Ba là, đánh giá cuối kỳ (2030). Đánh giá tác động, hiệu quả giảm CH₄ thực tế, Cập nhật cho NDC giai đoạn sau 2030.
Đặc biệt, việc liên kết với thị trường carbon mở ra cơ hội cho các dự án giảm CH₄ đăng ký tín chỉ, yêu cầu MRV chặt chẽ theo chuẩn trong nước và quốc tế và sẽ trở thành điều kiện bắt buộc khi sàn giao dịch carbon vận hành sau năm 2028.
Trong giai đoạn đến 2030, Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống MRV quốc gia, kết hợp kiểm kê KNK, cơ sở dữ liệu quốc gia, báo cáo đa cấp, và cơ chế đánh giá định kỳ để đảm bảo đo lường chính xác lượng mê-tan giảm, đồng thời có cơ chế điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết - đặc biệt tại mốc giữa kỳ 2025–2026.
Xin cảm ơn ông!
Tin liên quan
Đọc thêm
Môi trường
Gia Lai dốc toàn lực vệ sinh môi trường bệnh viện sau lũ
Môi trường
Chủ động ứng phó với áp thấp nhiệt đới gần Biển Đông
Môi trường
Người dân mệt mỏi giữa “màn sương bụi” bủa vây
Môi trường
Dự báo mưa lớn ở Trung Bộ giảm dần
Môi trường
TP Huế bàn giao hơn 740ha diện tích rừng cho Đà Nẵng
Môi trường
Tỉnh Khánh Hòa ban hành tiêu chí hỗ trợ khắc phục hậu quả mưa lũ
Xã hội
Khánh Hòa: Mưa lũ khiến 15 người chết, 30.000 ngôi nhà bị ngập sâu
Xã hội
Hơn 2.000 lượt cán bộ, chiến sĩ Hải quân tới vùng lũ giúp dân
Môi trường
Đắk Lắk: Hỗ trợ người dân "vùng rốn lũ" Hòa Thịnh gượng dậy sau trận lũ lịch sử
Môi trường






