![]() |
LTS: Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên. Để đạt được mục tiêu này, công nghiệp văn hóa là một trong những lĩnh vực đóng vai trò hết sức quan trọng. Phát triển công nghiệp văn hóa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng không chỉ là một chiến lược kinh tế, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về bản sắc, sáng tạo và hội nhập. Đây là cách để Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới, không chỉ bằng tiềm lực kinh tế mà còn qua sức mạnh mềm của văn hóa dân tộc.
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 5/5/2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định mục tiêu tập trung phát triển văn hóa Thủ đô xứng tầm với truyền thống nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, thực sự là trung tâm hội tụ-kết tinh văn hóa của cả nước. Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) cũng đã bổ sung một số quy định nhằm ưu tiên, thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng Hà Nội trở thành 1 trong 3 trung tâm công nghiệp văn hóa của cả nước, tạo nền tảng và động lực định vị thương hiệu “Thành phố sáng tạo” trong lĩnh vực thiết kế của UNESCO.
![]() |
Để hiện thực hóa những mục tiêu ấy, xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm mà Hà Nội đặt ra, với cái đích doanh thu từ công nghiệp văn hóa đạt 5% vào năm 2025, 8% năm 2030 và đến năm 2045 là 10% GRDP của toàn thành phố. Hà Nội là địa phương đầu tiên trên cả nước ban hành Nghị quyết và xây dựng Đề án về phát triển công nghiệp văn hóa. Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) cũng đã bổ sung một số quy định nhằm ưu tiên, thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
![]() |
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chiến lược của việc xây dựng văn hóa và thúc đẩy sự phát triển, phồn vinh của nền văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cấp ủy và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa, trên cơ sở đó, xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa; khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế mà ít quan tâm đến phát triển văn hóa; phải quán triệt nghiêm túc quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
![]() |
Có thể nói, trong thế giới ngày nay, khi văn hóa, kinh tế, chính trị hòa quyện với nhau, thì vị trí, vai trò của từng thành tố trong quá trình xây dựng, tích lũy và phát triển sức mạnh toàn diện của dân tộc ngày càng trở nên nổi bật. Đây là sự phản ánh nhạy bén và nắm bắt chính xác những xu hướng và đặc điểm mới sự phát triển của các quốc gia trên thế giới trong thời đại thông tin, đồng thời là sự khái quát mới trong nhận thức của Đảng ta về văn hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự phát triển tổng thể sức mạnh quốc gia và khả năng phục hồi kinh tế của một quốc gia ngày càng phụ thuộc vào sức mạnh mềm văn hóa của quốc gia đó. Để thúc đẩy sự phát triển đồng bộ nền kinh tế, không chỉ cần tiến hành cải cách hệ thống kinh tế tương ứng, mà còn phải nâng cao năng lực cạnh tranh về văn hóa nói riêng, sức mạnh văn hóa nói chung. Đây là sự lựa chọn tất yếu để thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế, xã hội và con người. Trong đó, vai trò của văn hóa đối với việc thúc đẩy, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế ngày càng rõ nét.
Công nghiệp văn hóa “đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới”; từ đó, cần có những giải pháp tạo điều kiện, môi trường thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách và kinh doanh để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, thể hiện chủ trương gắn kết phát triển văn hóa và phát triển kinh tế. Đặc biệt, ngày 8/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tạo khung chính sách tương đối thuận lợi để các ngành công nghiệp văn hóa có khả năng khai thác và chuyển hóa hiệu quả các thành tố sức mạnh mềm văn hóa nằm trong các trụ cột tài nguyên văn hóa thành sức thu hút, hấp dẫn văn hóa thông qua các sản phẩm và dịch vụ văn hóa.
![]() |
Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa trong phát triển kinh tế: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế” và “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”.
Với các nước trên thế giới, cụm từ "Công nghiệp văn hóa" đã không còn xa lạ nữa, nó trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế và có những đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của đất nước. Tại nhiều quốc gia, công nghiệp văn hóa còn trở thành ngành hái ra tiền, thu lại nhiều ngoại tệ khi xuất khẩu sang các quốc gia khác.
![]() |
Thậm chí, ở một số nước, công nghiệp văn hóa đã trở thành ngành trụ cột trong phát triển kinh tế của đất nước. Ở Anh, công nghiệp văn hóa đã tạo ra thu nhập khoảng 112,5 tỷ bảng/năm, đóng góp 5% GDP, chiếm 10 - 15% thị phần công nghiệp văn hóa thế giới. 85% thu nhập quốc dân của Hồng Kông (Trung Quốc) có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình. Hàn Quốc, điện ảnh phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng tới toàn cầu nhờ sự phát triển của ngành công nghiệp điện ảnh, âm nhạc...
Ở Việt Nam, vai trò kinh tế của văn hóa, của các ngành công nghiệp văn hóa ngày càng được nhận thức rõ, được thể hiện trong nhiều quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Văn kiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.
Coi trọng yếu tố sáng tạo - nguồn lực lớn nhất cho sự phát triển của quốc gia - là một xu thế lớn trên thế giới từ đầu những năm 2000. Các ngành kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hoá – sáng tạo đã và đang trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế thế giới. Chúng ta chứng kiến nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp từ ý tưởng sáng tạo trở thành những công ty định hình lại mô hình kinh doanh toàn cầu như facebook, amazon, airbnb, netflix, grab, uber...
Văn hóa nhờ đó được quan tâm nhiều hơn khi chính văn hoá là tác nhân kích thích sự hình thành và tạo ra giá trị cho sáng tạo. Các ngành công nghiệp văn hóa trở thành một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản hay Hàn Quốc. Chúng ta có thể thấy, ở các nước phát triển, công nghiệp văn hóa đã mang lại nguồn thu lớn cho tổng sản phẩm trong nước (GDP).
![]() |
Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hóa, sự phát triển của các quốc gia đều ảnh hưởng lẫn nhau, các ngành công nghiệp văn hóa chính là tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao, hợp tác quốc tế, giúp củng cố tính độc đáo của quốc gia và đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy bản sắc văn hóa; đồng thời là công cụ hữu hiệu cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế, biến văn hóa trở thành một thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp xây dựng nền kinh tế sáng tạo, bao gồm các lĩnh vực có giá trị kinh tế cao.
![]() |
Công nghiệp văn hóa có khả năng tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và lối sống của người tiêu dùng. Công nghiệp văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của người dân và phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia; đồng thời nó còn là kênh hữu hiệu để truyền bá các thông điệp văn hóa của mỗi quốc gia đến với cộng đồng quốc tế.
Mục tiêu tổng quát của "Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm năm 2045" là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế quan trọng; qua đó, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam và khẳng định thương hiệu, vị thế quốc gia trên trường quốc tế; phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành công nghiệp văn hóa để tăng cường tính quảng bá, lan tỏa các giá trị văn hóa, lịch sử đất nước, con người Việt Nam, thúc đẩy giao lưu, hội nhập quốc tế và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong đó, hướng đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP quốc gia.
Lực lượng lao động trong các ngành công nghiệp văn hóa bình quân tăng 8%/năm, chiếm tỷ trọng 6% trong tổng lực lượng lao động của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa bình quân đạt 8%/năm; phấn đấu tốc độ tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của các ngành công nghiệp văn hóa bình quân đạt 6%/năm.
![]() |
![]() | ![]() |
Mạng lưới các trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo được quy hoạch đồng bộ, đầu tư hiện đại, tôn vinh điểm đặc sắc, độc đáo, gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm của địa phương, quốc gia; tăng cường tỉnh liên kết vùng và liên kết các hệ thống hạ tầng, thiết chế văn hóa; phát triển các sản phẩm công nghiệp văn hóa có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đến năm 2030, có từ 5 đến 10 thương hiệu quốc gia tham gia sâu rộng và khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế. Các sản phẩm công nghiệp văn hóa được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy phát triển và gia tăng giá trị.
Đặc biệt, đến năm 2045, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phấn đấu doanh thu đóng góp 9% GDP và thu hút 6 triệu lao động để trở thành quốc gia phát triển về công nghiệp văn hóa trong khu vực châu Á; đồng thời khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.
Về định hướng phát triển, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với hội nhập quốc tế, phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa văn hoá, kinh tế, xã hội; phát triển công nghiệp văn hóa nằm trong tổng thể các chiến lược, quy hoạch quốc gia.
![]() |
"Tinh hoa Đạo học" của người Việt trong Tour Đêm Văn Miếu - Quốc Tử Giám. |
Việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên tư duy sắc bén, hành động sắc sảo, lựa chọn tinh hoa, đột phá phát triển, để các sản phẩm công nghiệp văn hóa đáp ứng được các yếu tố sáng tạo, bản sắc, độc đáo, chuyên nghiệp, lành mạnh, cạnh tranh bền vững trên nền tảng dân tộc, khoa học, đại chúng. Đặc biệt, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa góp phần tăng cường sức mạnh mềm quốc gia, xây dựng và khẳng định thương hiệu đối với các sản phẩm công nghiệp văn hóa chất lượng cao mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
Việt Nam có rất nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển công nghiệp văn hóa. Các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực sử dụng tài năng sáng tạo, tiềm năng (vốn) văn hoá kết hợp với công nghệ và kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Điều đó có nghĩa rằng, để hình thành một ngành công nghiệp điện ảnh chẳng hạn, chúng ta phải có sự liên kết một cách đồng bộ, chuyên nghiệp giữa thành phần sáng tạo điện ảnh (đạo diễn, biên kịch, diễn viên...), khai thác giá trị văn hóa của dân tộc, kết hợp với sử dụng các công nghệ tiên tiến và kỹ năng kinh doanh (xây dựng thương hiệu cho bộ phim, đạo diễn, diễn viên, tổ chức sự kiện, phát triển khán giả...) để sản xuất một bộ phim.
Con người Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là cần cù, sáng tạo. Tài năng của người Việt Nam được khẳng định ở nhiều lĩnh vực, từ thiên tài quân sự để vượt qua nhiều kẻ địch mạnh đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ và cả trong văn hoá nghệ thuật.
Với chiều dài lịch sử phát triển cùng bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em, Việt Nam thực sự là kho tàng văn hóa mà không phải quốc gia nào cũng may mắn có được. 54 dân tộc anh em sinh sống trên dải đất hình chữ S đã hình thành nên những nền văn hóa đặc sắc, phong phú. Bên cạnh những giá trị về văn hóa vật thể (các công trình kiến trúc nghệ thuật truyền thống), Việt Nam còn sở hữu vô số những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu (quan họ, ca trù, hát xoan, cải lương, tuồng, chèo…)… Tất cả đều có thể trở thành chất liệu tuyệt vời cho sáng tạo, tạo ra những sản phẩm văn hoá nghệ thuật vừa tôn vinh văn hoá dân tộc, vừa tạo ra sự khác biệt, giá trị riêng cho các sản phẩm văn hoá nghệ thuật.
Huyền ảo tour đêm tại đền Ngọc Sơn
Trên cơ sở những tiềm năng, lợi thế này, nếu biết tận dụng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam chắc chắn sẽ xây dựng thành công công nghiệp văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm - dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
Trong thời đại của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin, công nghiệp văn hóa có khả năng biến văn hóa trở thành bộ phận quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp Việt Nam xây dựng được một nền kinh tế sáng tạo, thịnh vượng, tự tin và độc đáo.
VĂN HOÁ GÓP PHẦN KHƠI NGUỒN SÁNG TẠO Tại hội nghị tổng kết Chương trình 06-CTr/TU ngày 17/3/2021 của Thành ủy Hà Nội về “Phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2021-2025" (Chương trình số 06-CTr/TU) sau hơn 4 năm triển khai, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, Trưởng ban Chỉ đạo Chương trình số 06-CTr/TU Nguyễn Văn Phong nhắc lại việc thực hiện và triển khai Chương trình số 06-CTr/TU diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, khi cả nước và Thủ đô phải gồng mình chống dịch COVID-19. Tuy nhiên, Hà Nội đã triển khai hiệu quả Chương trình. “Đây là Chương trình kế tiếp nhiều chương trình trước đó về con người, văn hóa trong nhiều nhiệm kỳ. Đây cũng là nhiệm kỳ đạt được nhiều thành tựu, tạo sự khác biệt. Chưa có Chương trình nào mà Thành ủy Hà Nội ban hành hẳn một Nghị quyết chuyên đề, đó là Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 22.2.2022 về "Phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045"; Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 19.2.2024 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh. Quan trọng hơn, Chương trình đã nhận được sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng doanh nghiệp, văn nghệ sĩ, nghệ nhân và quần chúng Nhân dân”, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong nhận định.
Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong đánh giá, kết quả rõ nét nhất là tất cả chỉ tiêu trong chương trình đã đạt được, nhiều chỉ tiêu vượt mức. Trong đó, thành phố đã có sự đầu tư đúng mức cho công tác giáo dục - đào tạo và văn hóa, xác định rất rõ mục tiêu: Lấy văn hóa, con người trở thành một trong 5 trụ cột quan trọng và là động lực cho phát triển Thủ đô. Chương trình số 06-CTr/TU tạo được sự chuyển biến về nhận thức một cách toàn diện, từ thành phố đến cơ sở. Hà Nội đã có các sản phẩm cụ thể và thiết thực về văn hóa, con người, khẳng định được uy tín, thương hiệu, vị thế của Thủ đô, góp phần quan trọng vào việc khơi nguồn sáng tạo trong xã hội, từ đó, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. “Điều đáng mừng nhất là trong quá trình triển khai Chương trình số 06-CTr/TU, chúng ta đã tự tin hơn tổ chức các sự kiện văn hóa tầm cỡ, có quy mô mang tính quốc tế. Chương trình đã khơi dậy sự tự hào hơn về truyền thống lịch sử, văn hóa của Thăng Long - Hà Nội, đồng thời, giúp các địa phương thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị của Thăng Long - Hà Nội trong thời đại mới. Chúng ta đã nhận thức rõ hơn vấn đề phát triển công nghiệp văn hóa trong bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống và gắn kết với phát triển du lịch của từng địa phương”, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Hà Nội Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh. |
![]() |
Thực hiện chủ trương của Ðảng về phát triển công nghiệp văn hóa, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Chính phủ; cụ thể hóa Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ lần thứ 17 nhiệm kỳ 2020-2025, tháng 2/2022, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU của Thành ủy về “Phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045” (Nghị quyết số 09-NQ/TU).
Nghị quyết số 09-NQ/TU của Thành ủy về “Phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” có mục tiêu là tạo bước phát triển toàn diện các ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội cả về quy mô, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và thị trường, đảm bảo phát triển bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ, tỷ trọng, giá trị gia tăng cao; hoạt động có tính chuyên nghiệp, với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; dịch vụ, sản phẩm văn hóa đa dạng, có chất lượng, có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ của người dân trong nước, thúc đẩy phát triển du lịch và xuất khẩu.
![]() | ![]() |
![]() |
Tinh hoa Bắc Bộ - show diễn thấm đượm văn hóa nghệ thuật dân gian. |
TP Hà Nội tập trung đầu tư phát triển một số lĩnh vực giàu tiềm năng, lợi thế như: Du lịch văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; quảng cáo; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; điện ảnh; thời trang; ẩm thực; phần mềm và các trò chơi giải trí; truyền hình và phát thanh; xuất bản... phù hợp với thực tiễn Thủ đô và từng giai đoạn cụ thể.
Mục tiêu đến năm 2025, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; hoàn thành rà soát, tích hợp quy hoạch phát triển công nghiệp văn hóa vào Quy hoạch Hà Nội đến 2030, tầm nhìn đến 2050; cải thiện hạ tầng tương đối đồng bộ, hiện đại, ưu tiên bố trí quỹ đất theo quy hoạch phân khu 2 bên bờ sông Hồng để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, Thủ đô Hà Nội hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống chỉ tiêu thống kê, triển khai số hóa, kết nối, chia sẻ dữ liệu số đảm bảo cho phát triển công nghiệp văn hóa có tính liên thông và chuyên nghiệp; đầu tư, phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng cao, đa dạng, độc đáo, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hoá Hà Nội; đầu tư, tôn tạo hệ thống các thiết chế văn hóa, các di tích quốc gia, di sản Thế giới Hoàng thành Thăng Long..; giữ vững và phát triển thương hiệu Thủ đô ngàn năm văn hiến, “Thành phố vì hòa bình”, “Thành phố sáng tạo”; phấn đấu đóng góp khoảng 5% GRDP của thành phố.
![]() |
Mục tiêu đến năm 2030, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô cơ bản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Hà Nội nằm trong nhóm các thành phố có ngành công nghiệp văn hóa phát triển hàng đầu có thương hiệu, sản phẩm uy tín, khả năng cạnh tranh cao với các thành phố trong khu vực Đông Nam Á; là “Thành phố sáng tạo” có sức ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á; phấn đấu doanh thu từ các ngành công nghiệp văn hóa tăng dần qua từng năm, đóng góp khoảng 8% GRDP của Thủ đô.
Mục tiêu đến năm 2045, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển toàn diện, là động lực phát triển các ngành, lĩnh vực khác, là tiền đề để xây dựng Hà Nội có chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, bền vững; trở thành “Thành phố sáng tạo” của khu vực châu Á, thành phố kết nối toàn cầu, trung tâm văn hóa, du lịch lớn đặc sắc, có sức cạnh tranh quốc tế; hình thành một số công trình văn hóa mới cho Thủ đô và Việt Nam, mang tính biểu tượng văn hóa có tầm cỡ khu vực và thế giới; phấn đấu đóng góp khoảng 10% GRDP của thành phố.
![]() |
Với vị trí, vai trò đặc biệt, Hà Nội có nền tảng văn hóa với tiềm năng to lớn. Hiện nay, Hà Nội đang sở hữu kho tàng di sản văn hoá vô giá và cực kỳ phong phú, đa dạng gồm 5.922 di tích, 1 di sản văn hóa thế giới, 1.793 di sản văn hóa phi vật thể; trong đó có 3 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 1 di sản tư liệu thế giới. Hà Nội còn có hệ thống 1.350 làng nghề, làng có nghề, chứa đựng những nét văn hóa truyền thống đặc sắc và có giá trị phát triển kinh tế cao.
Có thể thấy, văn hóa Hà Nội là nguồn sức mạnh to lớn xét trên nhiều góc độ, tầng mức, cả chiều sâu và quy mô, tính chất. Hà Nội đang dẫn đầu cả nước về số lượng không gian sáng tạo, tiêu biểu, như: Không gian phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm, phố đi bộ Trịnh Công Sơn; không gian bích họa Phùng Hưng, hợp tác xã Vụn Art (tranh ghép vải), dự án Tinh hoa làng nghề Việt Nam, không gian kiến trúc văn hóa Bảo tàng Hà Nội... Tuy nhiên, việc phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng thương hiệu Thành phố sáng tạo của Hà Nội vẫn cần rất nhiều nỗ lực.
So với các thành phố sáng tạo khác có nền công nghiệp văn hóa phát triển trên thế giới, các hoạt động sáng tạo đang diễn ra ở Hà Nội còn có khoảng cách khá xa. Chính vì vậy, Hà Nội cần luôn xác định phát triển công nghiệp văn hóa được đặt trong tổng thể và dựa trên nền tảng phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Đây là điều kiện để phát huy tối đa nguồn lực văn hóa, con người, tạo nên sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng quyết định phát triển bền vững Thủ đô.
![]() |
Phát triển công nghiệp văn hóa, thành phố sáng tạo là một ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đem lại nhiều việc làm và thu nhập, thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững Thủ đô, góp phần thực hiện thành công mục tiêu mà Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là đến năm 2030, ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô cơ bản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác.
Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Hà Nội Lê Hồng Sơn khẳng định, phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những chủ trương quan trọng của TP nhằm biến văn hóa thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là trong bối cảnh cùng với cả nước, Hà Nội đang đứng trước yêu cầu phát triển, tăng trưởng 2 con số và cần phát triển hơn nữa trong những năm tới. Để đạt được tăng trưởng bền vững, tăng trưởng xanh, Hà Nội cần phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế văn hóa trên tinh thần giữ gìn bản sắc và đổi mới sáng tạo.
(Còn nữa)
|
Thực hiện: Mai Anh - Phạm Mạnh |
![]() |