

![]() |
LTS: Trước thềm năm học mới 2025 - 2026, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo được ban hành với nhiều chủ trương, chính sách đột phá đã thể hiện tầm nhìn chiến lược dài hạn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ.
Không chỉ là một văn kiện chỉ đạo, đây được ví như “cú hích lịch sử”, thể hiện khát vọng lớn của Đảng và Nhà nước trong việc đưa giáo dục trở thành động lực trung tâm của sự phát triển quốc gia. Nghị quyết 71-NQ/TW chính là “đòn bẩy” để mở khóa những điểm nghẽn lâu nay, từ cơ chế chính sách, bất bình đẳng vùng miền đến chất lượng nguồn nhân lực. Văn kiện này xác lập 8 nhóm giải pháp đột phá: Đổi mới tư duy, thể chế, giáo dục toàn diện đức – trí – thể – mỹ, chuyển đổi số, xây dựng đội ngũ nhà giáo, cải cách giáo dục nghề nghiệp, nâng tầm đại học và hội nhập quốc tế sâu rộng.
|
"Ngành Giáo dục đang đứng trước cơ hội chưa từng có. Chưa bao giờ giáo dục và đào tạo được Đảng, Nhà nước quan tâm và kỳ vọng nhiều như hiện nay”. Đây là nhấn mạnh của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn về cơ hội cũng như trách nhiệm của ngành trước thềm năm học mới 2025 - 2026.
Sự quan tâm, kỳ vọng đó được thể hiện qua hàng loạt chính sách chưa từng có dành cho giáo dục của Đảng và Nhà nước thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, đặc biệt là tại Nghị quyết số 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo vừa được Bộ Chính trị ban hành nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn của giáo dục Việt Nam hiện nay đồng thời tạo đòn bẩy cho giáo dục Việt Nam bứt phá.
Với các mục tiêu đột phá, chưa từng có, cần giải pháp, đầu tư mang tính đột phá, chưa từng có. Các giải pháp đề ra trong Nghị quyết 71 được đánh giá là “giấc mơ có thật” của ngành Giáo dục.
|
Giáo viên là yếu tố then chốt, là “cỗ máy cái” quyết định chất lượng của ngành Giáo dục nhưng nhiều năm qua, thiếu giáo viên luôn là vấn đề nhức nhối của ngành giáo dục. Một trong những nguyên nhân chính do thu nhập của giáo viên còn thấp so với nhiều ngành nghề khác trong khi áp lực công việc lớn, trách nhiệm cao.
Trước thềm năm học mới 2025 - 2026, ngành giáo dục vẫn đang thiếu hơn 102.000 giáo viên công lập (gồm hơn 30.000 giáo viên mầm non và hơn 72.000 giáo viên phổ thông) trong khi còn khoảng 60.000 biên chế được giao chưa tuyển dụng được.
Tại buổi thảo luận về dự án Luật Nhà giáo ngày 9/11/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh “thiếu giáo viên, thiếu trường lớp đang là vấn đề rất thời sự”. “Đảm bảo đủ số lượng biên chế giáo viên theo tiêu chuẩn quy định” và “có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo” là khẳng định Bộ Chính trị tại Nghị quyết 71 với những chính sách cụ thể. Nghị quyết quy định phụ cấp ưu đãi nghề với sở cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông tối thiểu 70% cho giáo viên, 30% cho nhân viên, 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đây được đánh giá là những con số “mơ ước” khi phụ cấp giáo viên mầm non, phổ thông hiện nay chỉ từ 30 đến 35%, với giáo viên vùng khó khăn là 50%, nhân viên trường học không có phụ cấp.
Những con số này cũng vượt xa, thậm chí gấp đôi so với dự thảo Nghị định quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với viên chức, người lao động công tác trong các cơ sở giáo dục công lập được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố hồi tháng Sáu. Theo dự thảo này, mức phụ cấp cho nhân viên trường học từ 15 - 20%, giáo viên từ 30% đến 45%, giáo viên vùng khó khăn từ 50 đến 80%.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho hay, sau khi có Nghị quyết 71, Bộ đang hoàn thiện dự thảo này. Theo đó, lương cơ bản của tất cả các nhà giáo đều tăng, mức tăng ít nhất 2 triệu đồng và nhiều nhất là 7 triệu đồng/tháng, chưa kể các phụ cấp khác. "Đây thực sự là giấc mơ có thật" cô Bùi Thu Hằng, giáo viên một trường mầm non ở xã Đông Anh (Hà Nội) chia sẻ.
Với giáo dục nghề nghiệp, theo Nghị quyết, lần đầu tiên trong lịch sử, giáo viên, giảng viên giáo dục nghề nghiệp sẽ được đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo từ ngân sách Nhà nước, tương tự như giáo viên phổ thông hiện nay.
Với giảng viên đại học, Nghị quyết yêu cầu tăng cơ chế hỗ trợ giảng viên đi học nâng cao trình độ ở trong và ngoài nước, thực hiện chế độ giảng viên đồng cơ hữu. Đây là lần đầu tiên khái niệm “giảng viên đồng cơ hữu” được chính thức đưa vào một văn bản quy phạm pháp luật, xóa bỏ quy định một giảng viên chỉ được cơ hữu tại một trường đại học hiện nay, mở ra cơ hội cho các trường đại học linh hoạt tận dụng nguồn giảng viên chất lượng cao.
![]() |
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thành Nhân, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Huế), việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người. Điều này cũng sẽ tăng sức hấp dẫn của nghề giáo với xã hội, thu hút được những người giỏi, xuất sắc vào sư phạm, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.
Hiệu ứng này đã được minh chứng rõ trong mùa tuyển sinh đại học năm nay khi “cú hích” từ chính sách miễn học phí, cấp bù sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm, tăng lương cho nhà giáo đã thu hút sự quan tâm rất lớn của thí sinh dành cho ngành sư phạm, đẩy điểm chuẩn ngành Sư phạm cao ngất ngưởng với 4 “lập đỉnh” 30 điểm, hàng chục ngành khác từ 28 điểm trở lên, vượt cả các ngành “hot” như trí tuệ nhân tạo hay công nghệ bán dẫn và có khoảng cách rất lớn, thậm chí gấp đôi các ngành đào tạo khác.
Chế độ ưu đãi vượt trội và việc trao vai trò chủ trì tuyển dụng giáo viên cho ngành giáo dục quy định tại Luật Nhà giáo (mới ban hành, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) được kỳ vọng sẽ giải quyết triệt để vấn đề thừa – thiếu giáo viên cục bộ đã tồn tại dai dẳng hàng chục năm qua của ngành giáo dục đồng thời nâng chất lượng đội ngũ.
Chia sẻ về những điểm mới và đột phá của Nghị quyết 71-NQ/TW, bà Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, cho rằng, để hiện thực hóa Nghị quyết 71-NQ/TW cần 3 có kế hoạch. Đó là: Cần huy động và phân bổ nguồn lực tài chính hợp lý, bảo đảm hiệu quả và tránh dàn trải; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; đặc biệt chú trọng công tác tăng cường sự giám sát, phản biện xã hội, bảo đảm mọi chủ trương, chính sách được thực hiện minh bạch, đồng bộ, có hiệu quả thực chất.
Theo Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, Nghị quyết 71-NQ/TW là văn kiện mang tính bước ngoặt, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta trong việc đặt giáo dục và đào tạo vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia. Nghị quyết lịch sử này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, đặt giáo dục lên hàng "quốc sách hàng đầu", coi giáo dục là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững.
Đồng quan điểm, PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết, năm học 2025-2026 được ví như năm bản lề của một giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ - thời điểm giáo dục Việt Nam thực sự được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược quốc gia, khởi đầu cho khát vọng đổi mới, hội nhập và cất cánh.
Cho rằng "chưa bao giờ ngành Giáo dục được cam kết đầu tư mạnh mẽ như hiện nay", PGS.TS Trần Thành Nam nhấn mạnh: "Nghị quyết 71-NQ/TW quy định, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục - đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách. Đây một con số ấn định mang tính pháp lệnh, thể hiện cam kết chính trị rất cao trong việc ưu tiên nguồn lực cho giáo dục. Với quy định cứng này, bài toán thiếu kinh phí kinh niên của ngành giáo dục có cơ hội được giải quyết. Nguồn lực tài chính tăng lên sẽ giúp xây mới và nâng cấp trường lớp, bổ sung trang thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt tại những nơi còn khó khăn, đảm bảo "đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên" như quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết".
![]() |
PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội |
Quan trọng hơn, theo PGS.TS Trần Thành Nam, cách phân bổ ngân sách sẽ được đổi mới về chất, chuyển từ cơ chế cấp phát dàn trải sang tập trung đầu tư dựa trên sứ mệnh, chất lượng và hiệu quả đầu ra. "Đây thực sự là một cú hích về nguồn lực cho toàn ngành, giúp các địa phương và cơ sở giáo dục có điều kiện thực hiện những cải cách cần thiết. Từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi, hệ thống giáo dục sẽ được củng cố vững chắc nhờ sự hậu thuẫn mạnh mẽ về tài chính. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai; quyết sách ngân sách táo bạo này cho thấy đất nước đang đặt cược lớn vào thế hệ trẻ, kỳ vọng giáo dục sẽ tạo ra bứt phá cho phát triển kinh tế - xã hội trong những thập niên tới", PGS.TS Trần Thành Nam nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 71-NQ/TW mang đến luồng gió mới cho giáo dục đại học với quyền tự chủ toàn diện cho các trường. Lần đầu tiên, các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp được tự chủ đầy đủ về học thuật, nhân sự và tài chính mà không còn phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính trước đó. Trao quyền tự chủ mạnh mẽ như vậy sẽ "cởi trói" cho các trường đại học, khuyến khích tinh thần sáng tạo, giúp họ linh hoạt hơn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, qua đó vươn tầm cạnh tranh quốc tế.
![]() |
Theo báo cáo Tổng kết công tác xã hội hóa về kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2013 - 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu, năm 2013, cả nước có 41.397 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Trong đó có 12.131 cơ sở giáo dục mầm non, 15.232 trường tiểu học, 10.844 trường trung học cơ sở, 2.286 trường trung học phổ thông và 904 trường phổ thông có nhiều cấp học.
Tính trên địa bàn bàn cả nước có 553.181 phòng học các cấp mầm non, phổ thông công lập, số phòng học kiên cố khoảng 364.367 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố hóa là 65,9%.
Ghi nhận từ báo cáo, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa còn thấp, đặc biệt là cấp học mầm non. Theo đó, tỷ lệ kiên cố hóa trung bình cả nước chỉ là 47,7% (vùng Tây Bắc chỉ khoảng 36,5%, Tây Nguyên 35,4%, Bắc Trung Bộ chỉ khoảng 32,8%).
Tại cấp tiểu học tỷ lệ kiên cố hóa trung bình cả nước cũng chỉ là 61,6% (thấp nhất là vùng Tây Bắc khoảng 43%, Đồng bằng sông Cửu Long 48,4%).
![]() |
Đến hết năm 2023, cả nước có gần 628.571 phòng học các cấp mầm non, phổ thông công lập (tăng 73.290 phòng học so với năm 2013). Trong đó, số phòng học kiên cố 545.375 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố hóa là 86,6% (tăng 20,7% so với năm 2013).
Theo đó, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân của cả nước từ 83% trở lên (theo từng cấp học). Tuy nhiên, các vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ kiên cố hóa vẫn thấp hơn bình quân của cả nước.
Thời điểm hiện tại, ùng với vấn đề giáo viên, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo là một nút thắt lớn của ngành giáo dục. Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy hiện cả nước vẫn thiếu hơn 35.000 phòng học để đạt tỷ lệ 1 lớp/phòng, đáp ứng yêu cầu học 2 buổi/ngày, trong đó cấp mầm non thiếu gần 28.000 phòng, cấp tiểu học thiếu gần 7.500 phòng. Con số này chưa tính đến số lớp, phòng học còn thiếu nếu bảo đảm số học sinh/lớp theo quy định. Số phòng học chưa được kiên cố hóa là trên 64.000 phòng.
Ở khu vực điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, vẫn còn tồn tại 6.477 phòng học nhờ, mượn, tập trung chủ yếu tại cấp học mầm non và tiểu học. Ở khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, nhu cầu ở nội trú của học sinh rất lớn nhưng không đủ nguồn lực nên các em vẫn phải di chuyển quãng đường rất xa xôi vất vả đến trường mỗi ngày
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho hay giai đoạn 2013 - 2024, tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục không chỉ chưa đạt mức tối thiểu 20% như quy định mà còn chủ yếu dành cho chi thường xuyên. Cụ thể, chi thường xuyên chiếm đến 83,4%, chi đầu tư chỉ chiếm 17,6%, tương đương chưa đến 4% tổng chi ngân sách, chưa đáp ứng được yêu cầu cải tạo, nâng cấp và đầu tư mới.
Đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam khoảng 0,27 - 0,35% GDP, tương đương 1,5 - 1,8% tổng chi ngân sách Nhà nước
Đầu tư cho giáo dục đại học cũng chưa tương xứng. Theo Tiến sỹ Phạm Mạnh Hùng (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho hay lâu nay, chi cho giáo dục đại học của Việt Nam khoảng 0,27 - 0,35% GDP, tương đương 1,5 - 1,8% tổng chi ngân sách Nhà nước, thấp hơn nhiều so với chuẩn mực quốc tế, trở thành “điểm nghẽn” trong phát triển giáo dục đại học.
Nghị quyết 71 đã tháo gỡ các điểm nghẽn này khi không chỉ quy định chung chi ngân sách cho giáo dục đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước mà còn phân bổ rõ trong đó chi đầu tư đạt ít nhất 5% tổng chi ngân sách, chi cho giáo dục đại học tối thiểu 3% ngân sách. “Đây là điểm đột phá trong quy định về chi ngân sách cho giáo dục. Phải có đầu tư rất thực tế mới có chất lượng xứng tầm,”
Định hướng về chi đầu tư, tại Nghị quyết 71, Bộ Chính trị chỉ đạo tập trung nguồn lực xây dựng kiên cố hóa, hiện đại hóa trường lớp, đảm bảo đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đạt chuẩn, đặc biệt chú trọng đầu tư các phòng thực hành, không gian vui chơi và rèn luyện thể chất cho học sinh. Nâng chuẩn cơ sở giáo dục ở tất cả các cấp học từng bước tiệm cận quốc tế, hoàn thành xây dựng mạng lưới trường phổ thông nội trú tại vùng khó khăn, biên giới trước năm 2030, mở rộng hệ thống đào tạo dự bị đại học cho học sinh người dân tộc thiểu số.
Với giáo dục đại học, đầu tư hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, mở rộng không gian phát triển, tập trung đầu tư nâng cấp cở vật chất, phòng thí nghiệm, xây dựng trung tâm đào tạo, nghiên cứu xuất sắc tại cơ sở giáo dục trọng điểm, cơ sở đào tạo giáo viên. Nghị quyết khuyến khích xây dựng các khu đô thị công nghệ cao – đại học, một mô hình mới đang được vận hành hiệu quả ở các nước phát triển.
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết năm học 2024-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng đặc biệt lưu ý với lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố về chi ngân sách năm 2026 phải ưu tiên làm dự toán cho giáo dục đào tạo theo các chỉ tiêu phân bổ theo yêu cầu của Nghị quyết 71.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng |
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, dự toán năm 2026, dự kiến tổng chi cho giáo dục đào tạo khoảng 630.000 tỷ đồng, tăng khoảng 134.000 tỷ đồng so với năm 2025. “Đây là mức chi tối thiểu nên dự toán còn có thể tăng thêm tuỳ theo nhu cầu và không khống chế trần,” Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh.
"Có thực mới vực được đạo", Giáo sư Nguyễn Đình Đức (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh đồng thời cho rằng việc tăng đầu tư cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục mà còn là giải pháp cụ thể góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành.
“Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để hiện đại hóa nhà trường. Có đầu tư sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa”, Giáo sư Nguyễn Đình Đức nói.
![]() |
Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới (Thông báo số 81-TB/TW ngày 18/7/2025) nhấn mạnh, việc đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới đất liền là một nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính sách dân tộc nhằm nâng cao dân trí, chất lượng nhân lực, tạo nguồn cán bộ là người dân tộc, địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào vùng biên giới, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh.
Thí điểm đầu tư hoàn thành xây mới hoặc cải tạo 100 trường trong năm 2025 (chậm nhất là đến thời điểm khai giảng năm học sau). Các trường này sẽ là hình mẫu để sau đó tiếp tục triển khai diện rộng, hoàn thành mục tiêu đầu tư xây dựng 248 trường trong 2-3 năm tới.
Đặc biệt, các trường được đầu tư phải bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, quy mô, diện tích trường, lớp; có đủ cơ sở vật chất phục vụ việc học tập, rèn luyện văn hóa, tinh thần, thể chất, điều kiện sinh hoạt và tuyệt đối an toàn.
Với lộ trình rõ ràng, nhiệm vụ cụ thể, cùng sự ưu tiên đặc biệt cho vùng khó khăn, miền núi, biên giới, Nghị quyết 71 được kỳ vọng sẽ tạo ra chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong toàn hệ thống giáo dục - đảm bảo công bằng trong tiếp cận tri thức và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các khu vực còn khó khăn.
![]() |
Một điểm đột phá rõ nét trong Nghị quyết 71-NQ/TW là sự cam kết mạnh mẽ về nguồn lực tài chính – điều từng được đặt ra trong Nghị quyết 29-NQ/TW nhưng còn thiếu các cơ chế thực thi hiệu quả. Lần này, mục tiêu được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu ngân sách: Chi cho giáo dục đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, trong đó ít nhất 5% dành cho đầu tư và 3% cho giáo dục đại học.
![]() |
Đây không chỉ là con số mang tính cam kết chính trị, mà là nền tảng để hiện thực hóa các định hướng cải cách lớn, từ trường lớp đến chương trình, từ đội ngũ đến quản trị.
Đặc biệt, lần đầu tiên chính sách tài chính giáo dục đặt vấn đề cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh cả nước từ nay đến 2030 – một bước tiến có ý nghĩa xã hội sâu sắc, không chỉ giảm gánh nặng chi phí học tập cho các gia đình mà còn bảo đảm cơ hội tiếp cận công bằng tri thức cho mọi đối tượng.
Song song với đó là chính sách nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên tối thiểu 70% cho giáo viên mầm non và phổ thông, và 100% đối với giáo viên vùng khó khăn – một động thái thể hiện sự chuyển dịch trong tư duy đầu tư: từ "cơ sở vật chất là then chốt" sang "giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục".
Đây là điểm kết nối với tinh thần của Nghị quyết 29-NQ/TW nhưng được đẩy lên một cấp độ mới về thực thi và công bằng vùng miền.
Tuy nhiên, đầu tư tài chính chỉ là một phần. Nghị quyết mới không chỉ giới hạn ở chương trình hay sách giáo khoa như cách tiếp cận trước đây. Lần này, đổi mới trải rộng trên mọi khía cạnh: Thể chế, mô hình nhà trường, cách tổ chức dạy - học, quản trị, nhân lực, công nghệ, tài chính. Trường học không còn là "nơi truyền thụ", mà phải trở thành không gian đổi mới, sáng tạo và kiến tạo năng lực cho người học.
Khác với Nghị quyết 29-NQ/TW vốn thiên về khung định hướng và những nguyên lý chung, Nghị quyết 71-NQ/TW đưa ra đích đến rõ ràng, định lượng được và có thời hạn, như “hoàn thành phổ cập trung học phổ thông vào năm 2035”, hay “ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học lọt top 100 đại học hàng đầu thế giới vào năm 2045”. Những mục tiêu cụ thể này không chỉ tạo áp lực thực thi, mà còn buộc toàn hệ thống giáo dục phải chuyển mình trong tư duy quản trị, đánh giá và trách nhiệm giải trình.
Bản chất của cải cách lần này là thay đổi mô hình phát triển giáo dục: từ “hướng đến chuẩn đầu ra” sang “hướng đến phát triển con người toàn diện”; từ giáo dục phục vụ thi cử sang giáo dục khơi mở năng lực, nuôi dưỡng cảm hứng và trách nhiệm công dân. Để đạt được điều đó, không thể chỉ trông chờ vào ngân sách hay chính sách, mà cần sự nhập cuộc của toàn xã hội, của từng giáo viên, từng nhà trường.
ĐẢM BẢO CƠ HỘI HỌC TẬP BÌNH ĐẲNG, NÂNG CAO VỊ THẾ NHÀ GIÁO Theo quyết định của Bộ Chính trị, từ năm học 2025-2026, 100% học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên cả nước sẽ không phải đóng học phí. Các chuyên gia cho rằng, chủ trương này góp phần biến khẩu hiệu "giáo dục là quốc sách hàng đầu" thành hành động cụ thể. Chính sách miễn học phí toàn dân giúp không một học sinh nào phải bỏ học vì khó khăn tài chính, bảo đảm cơ hội học tập bình đẳng cho mọi trẻ em. PGS.TS Trần Thành Nam nhận định, cùng với học phí, Nhà nước cũng đề ra lộ trình miễn phí sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Phấn đấu đến năm 2030, tất cả học sinh trên cả nước sẽ được cung cấp sách giáo khoa miễn phí. Chính sách chưa từng có này sẽ giảm đáng kể gánh nặng kinh tế cho hàng triệu gia đình, đặc biệt ở nông thôn và vùng khó khăn. Giáo dục phổ thông miễn phí toàn diện, từ học phí đến sách giáo khoa, thực sự mở ra một tương lai mà không rào cản vật chất nào có thể ngăn bước trẻ đến trường, để mỗi học sinh đều có cơ hội phát huy hết tiềm năng của mình.
Nếu học sinh là trung tâm của giáo dục thì nhà giáo chính là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo. Cùng với Luật Nhà giáo có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, Nghị quyết 71-NQ/TW đã đề ra những chính sách chưa từng có để tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng đội ngũ thầy cô. Tại Hội thảo quốc gia "Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: Thực trạng, thách thức và giải pháp" ngày 26/8 , Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết đến năm 2025, vùng dân tộc thiểu số có hơn 20.000 trường học, tăng 1.500 trường so với năm 2015, trong đó trường dân tộc nội trú tăng thêm 109 trường. Nhiều trường dân tộc nội trú đạt tỷ lệ học sinh tốt nghiệp 100%; tỷ lệ chung chỉ thấp hơn mặt bằng cả nước 1–1,5%. Khoảng 60% học sinh trường nội trú thi đỗ đại học. Tuy nhiên, công tác giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn như: Mạng lưới trường lớp chưa đồng bộ, chất lượng giáo dục chưa đồng đều, tỷ lệ học sinh học tiếp sau trung học cơ sở còn thấp so với mặt bằng chung cả nước. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học còn thiếu thốn. Nhìn chung, học sinh và giáo viên ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi vẫn còn thiệt thòi so với các vùng khác trong cả nước. |
![]() |
Tại Hội nghị Tổng kết năm học 2024-2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định đầu tư công không thể đáp ứng tất cả nhu cầu phát triển của giáo dục hiện nay. Vì vậy, việc thu hút nguồn lực xã hội là vô cùng quan trọng. Nghị định 71 cũng khẳng định quan điểm chỉ đạo của Đảng là phải “tạo đột phá về nguồn lực, bảo đảm Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội cho hiện đại hoá toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân.”
Sự đột phá trong thu hút nguồn lực xã hội thể hiện rõ ở các cơ chế rất mới về nhân lực và đầu tư cho giáo dục.
Về nhân lực, Nghị quyết mở ra các cơ chế mới như xây dựng chính sách phù hợp để huy động người giỏi ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện trong các cơ sở giáo dục, tham gia hướng dẫn kỹ năng nghề hoặc chủ trì các hoạt động nghiên cứu; xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt trội.
Với chỉ đạo này, Nghị quyết đã tháo gỡ điểm nghẽn về nhân sự hiện nay ở giáo dục phổ thông trong thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt là việc huy động lực lượng văn nghệ sỹ tham gia giảng dạy văn hóa, nghệ thuật cho học sinh nhằm bảo tồn, phát huy và bồi đắp bản sắc văn hóa dân tộc; tháo gỡ điểm nghẽn trong giáo dục nghề nghiệp về huy động các nghệ nhân, thợ lành nghề, doanh nghiệp tham gia đào tạo; tháo gỡ điểm nghẽn về tuyển dụng nhân lực chất lượng cao ở giáo dục đại học, đặc biệt là trong nghiên cứu khoa học.
![]() |
Về huy động đầu tư cho giáo dục, Nghị quyết yêu cầu xây dựng khuôn khổ pháp lý để hình thành quỹ tài trợ cho các cơ sở giáo dục huy động vốn cộng đồng. Đây là một bước đi đột phá nhằm huy động nguồn lực toàn xã hội cho giáo dục.
Nghị quyết cũng yêu cầu xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển giáo dục đồng thời cho phép triển khai hàng loạt chính sách ưu đãi cho giáo dục tư nhân, từ ưu tiên vốn tín dụng đến ưu đãi về đất đai. Cụ thể như ưu tiên dùng quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang giáo dục; không thu tiền sử dụng đất; giảm tiền thuê đất, thuế đất đối với cơ sở giáo dục trong nước; không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp với cơ sở giáo dục tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; áp dụng hình thức cho thuê công trình thuộc sở hữu Nhà nước đối với cơ sở giáo dục tư thục.
Từ thực tiễn 30 năm hình thành và phát triển cơ sở giáo dục tư thục, bà Nguyễn Thị Minh Thúy, Hiệu trưởng Trường Nguyễn Siêu (Hà Nội) cho hay khó khăn lớn nhất hiện nay của các trường tư không phải nằm ở nguồn nhân sự hay năng lực quản trị mà là vấn đề cơ sở vật chất, đặc biệt là đất đai. Vì vậy, khi đóng góp ý kiến cho việc xây dựng Nghị quyết 71, Trường Nguyễn Siêu đã đề nghị hai giải pháp: cần có chính sách miễn giảm thuế đất và cho phép các trường tư được thuê, sử dụng các cơ sở công lập dôi dư để đầu tư, nâng cấp thành những ngôi trường đạt chuẩn quốc tế.
“Nghị quyết 71 đã mở ra hành lang pháp lý để hiện thực hóa những điều này. Nếu được triển khai quyết liệt, đây sẽ là bước đột phá giúp giáo dục ngoài công lập phát triển đúng với tiềm năng”, bà Thúy nói.
Học sinh Trường THCS và THPT Nguyễn Siêu (TP Hà Nội)
Bày tỏ sự phấn khởi và tin tưởng vào Nghị quyết 71, bà Thuý cho hay đây là lần đầu tiên một nghị quyết của Bộ Chính trị dành riêng những quy định, chính sách cụ thể cho khu vực giáo dục tư thục, khẳng định “giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân”. “Đây là sự thay đổi mang tính lịch sử,” Hiệu trưởng Trường Nguyễn Siêu nhấn mạnh.
Cũng theo bà Thuý, một điểm đột phá quan trọng nữa của Nghị quyết là việc mở ra hành lang để phát triển những mô hình đào tạo mới, với cơ sở hạ tầng và điều kiện vận hành phù hợp. Nhờ đó, các trường ngoài công lập sẽ có thêm cơ hội đầu tư, đổi mới, và triển khai nhiều mô hình giáo dục tiên tiến, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội.
Hiệu trưởng một trường phổ thông tại Hà Nội thẳng thắn cho hay đi liền với nâng mức đầu tư cần sự thông thoáng về cơ chế tự chủ cho cơ sở giáo dục để “tháo vòng kim cô” cho các nhà trường.
“Việc thực hiện chính quyền 2 cấp, xóa bỏ cấp phòng giáo dục là một bước tiến nhưng vẫn cần trao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường cả về tài chính và nhân sự, hoạt động chuyên môn”, vị hiệu trưởng này chia sẻ.
Cùng quan điểm này, bà Chu Thị Xuân Hường, Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Hoàng Mai (phường Hoàng Mai, Hà Nội) cho rằng tự chủ gắn liền với cơ chế giám sát và tự chịu trách nhiệm từ tuyển dụng đến sử dụng tài chính là “chìa khóa” quan trọng để mỗi nhà trường phát huy tối đa sức mạnh nội tại, nâng cao chất lượng giáo dục.
![]() |
Nhà giáo Chu Thị Xuân Hường - Hiệu trưởng trường THCS Hoàng Mai (TP Hà Nội) |
Giải quyết vấn đề này, Nghị quyết 71 khẳng định đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực; tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục gắn với kiểm tra, giám sát; giảm đầu mối cơ quan quản lý với cơ sở giáo dục, bảo đảm nguyên tắc gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản lý nhân sự và tài chính.
Với giáo dục đại học, Nghị quyết khẳng định ưu tiên cho phát triển giáo dục đại học và đảm bảo quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Việc phân bổ ngân sách cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp dựa trên sứ mạng, chất lượng và hiệu quả; đặt hàng với các lĩnh vực trọng điểm theo kết quả đầu ra. Có cơ chế đặc thù vượt trội để phát triển 3 đến 5 đại học tinh hoa theo mô hình đại học nghiên cứu đẳng cấp thế giới…
Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, Giáo sư Nguyễn Đình Đức (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho hay ông rất tâm đắc và đánh giá đây là những chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. Theo Giáo sư Nguyễn Đình Đức, những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm “thay da đổi thịt” nhiều trường đại học nhưng vẫn còn những điểm nghẽn. Quan điểm “đảm bảo quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho cơ sở giáo dục đại học” sẽ tháo gỡ các điểm nghẽn này.
Việc xây dựng mô hình đại học đẳng cấp thế giới và đầu tư cho nghiên cứu khoa học ở Nghị quyết 71 là sự cộng hưởng với Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ để trở thành nòng cốt và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.
“Nghị quyết 71-NQ/TW thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học tới tầm và vượt trội”, Giáo sư Nguyễn Đình Đức nói đồng thời khẳng định Nghị quyết 71 thực sự là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, sẽ đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học thời gian tới.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, những ngành học có tính ứng dụng cao đang ngày càng thu hút sự quan tâm, một trong số đó là ngành Cử nhân Khoa học Giáo dục
Tự chủ đại học đã trở thành từ khóa quen thuộc suốt một thập kỷ, nhưng theo GS.TS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, cách hiểu lâu nay có vấn đề ngay từ gốc. Ông nhớ lại giai đoạn 2016, khi Bộ GD&ĐT xây dựng đề án tự chủ để trình Chính phủ, dự thảo ban đầu được soạn theo Nghị định 16 về đơn vị sự nghiệp công lập: trường nào thu càng nhiều thì được trao quyền tự chủ càng cao: "Khi nhận dự thảo, tôi thấy ngay cách tiếp cận này hoàn toàn sai về tự chủ đại học. Tự chủ phải đi trên bốn chân: tài chính, nhân sự, tổ chức và bộ máy – chứ không thể chỉ dựa vào khả năng thu".
Theo ông, bản chất của tự chủ không phải là "cắt" ngân sách mà là đổi cách cấp ngân sách: Thay vì dự toán hằng năm, Nhà nước cần cấp một gói tài chính ổn định trong 3–5 năm. Trong khuôn khổ đó, các trường được tự quyết chi cho nhân sự, đầu tư và hoạt động học thuật, miễn là có cơ chế giải trình minh bạch.
Cách tiếp cận này của giai đoạn trước là biến tự chủ thành "tự lo", dẫn đến một lộ trình cắt ngân sách từng bước – mỗi năm giảm 10%, đến 2026 cắt toàn bộ. Điều này đẩy các trường vào vòng xoáy tăng học phí, mở thêm chương trình chất lượng cao để cân đối thu chi:"Xu hướng tăng học phí quá nhanh và mạnh là tất yếu. Nhưng nó rất không hay trong giáo dục. Nó tạo ra bất bình đẳng, gánh nặng đè lên vai phụ huynh, nhiều gia đình phải chật vật mới lo cho con được học đại học".
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội coi giáo dục toàn diện là "chìa khóa vàng" để đào tạo nhân lực
Không chỉ vậy, cơ chế "đặt hàng" đào tạo – vốn kỳ vọng là lối thoát – cũng gặp nhiều vướng mắc. GS Thanh dẫn ví dụ Nghị định 116 về đặt hàng đào tạo giáo viên: nhiều tỉnh, thành không ký đặt hàng vì lo rủi ro trách nhiệm khi "sản phẩm" chỉ xuất hiện sau bốn năm. Hệ quả là chỉ tiêu đào tạo thấp, thiếu giáo viên cục bộ, đẩy điểm chuẩn sư phạm lên cao, "Bốn năm sau mới ra sản phẩm, không ai dám ký hợp đồng trăm tỷ mà phải chờ đến bốn năm mới nghiệm thu".
Theo GS Thanh, Nghị quyết 71 mở ra cơ hội để luật hóa cách cấp ngân sách, biến tự chủ thành "tự chủ có bảo đảm". Nhà nước vẫn đầu tư nhưng theo cơ chế đặt hàng chuẩn hóa, minh bạch, giảm rủi ro cho địa phương. Các trường được quyền tự quyết trong gói ngân sách đã cấp, đồng thời khuyến khích đa dạng nguồn thu (hợp tác quốc tế, nghiên cứu, dịch vụ) thay vì phụ thuộc tuyệt đối vào học phí. Học phí được điều chỉnh có lộ trình, tránh "sốc giá" và hạn chế bất bình đẳng.
Cơ chế mới này, theo ông, sẽ có hai tác động tích cực: chặn đà tăng học phí, giảm áp lực xã hội và bảo đảm cơ hội học tập công bằng; đồng thời giúp các trường ổn định chiến lược phát triển, tập trung nâng chất lượng thay vì phải chạy theo quy mô tuyển sinh để có thêm nguồn thu.
![]() |
PGS.TS Nguyễn Đức Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội |
PGS.TS Nguyễn Đức Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội khẳng định: “Nếu đất nước muốn trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, giáo dục phải đi trước một bước. Đại học cần phòng thí nghiệm hiện đại, công nghệ tiên tiến để đào tạo nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết 71-NQ/TW trao cho chúng ta cả tầm nhìn lẫn điều kiện để hiện thực hóa”.
Ông cho rằng, 3 yếu tố làm nên tính khả thi của nghị quyết là: trí tuệ và động lực của con người Việt Nam; nguồn lực tài chính cho giáo dục; và tầm nhìn chiến lược rõ ràng.
Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chính sách được đánh giá là “chưa từng có” cho giáo dục. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh giáo dục “chưa bao giờ được quan tâm như bây giờ” đồng thời khẳng định nếu ngành giáo dục không tận dụng cơ hội để phát triển thì “có lỗi rất lớn”.
Quan điểm này được nhiều chuyên gia, các nhà giáo và người dân đồng tình. Quả thật, chưa bao giờ giáo dục nhận được sự quan tâm toàn diện, mạnh mẽ như hiện nay. Đây là cơ hội lịch sử để giáo dục Việt Nam bứt phá. Nếu không tận dụng, đúng như Bộ trưởng nói, chúng ta sẽ có lỗi với đất nước, với thế hệ trẻ.
Bà Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội, nhận định: Giáo dục Việt Nam những năm qua đạt được nhiều thành tựu song cũng còn tồn tại không ít điểm nghẽn. Thứ nhất là tình trạng chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng miền. Thứ hai là chương trình, sách giáo khoa còn nặng tính hàn lâm, thiếu sự gắn kết với thực tiễn. Thứ ba là chế độ, chính sách cho giáo viên còn nhiều bất cập, chưa khuyến khích được sự cống hiến lâu dài. Thứ tư là đầu tư cho cơ sở vật chất, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vẫn còn hạn chế.
Nghị quyết 71-NQ/TW đưa ra những giải pháp căn cơ để tháo gỡ các điểm nghẽn này, như: Thực hiện đồng bộ chủ trương miễn học phí, dạy học 2 buổi/ngày; ưu tiên đầu tư trường nội trú, bán trú cho vùng biên giới, vùng khó khăn; đổi mới căn bản chương trình, sách giáo khoa, bảo đảm tính hiện đại, khoa học và phù hợp thực tiễn. Đây là những quyết sách mạnh mẽ, kịp thời, nhằm mở thông “điểm nghẽn” và tạo điều kiện để giáo dục bứt phá. Bên cạnh đó, bà Nguyễn Thị Việt Nga cho rằng, Nghị quyết 71-NQ/TW còn đặc biệt nhấn mạnh việc coi trọng danh dự, vị thế người thầy, kiên quyết chấn chỉnh những hiện tượng tiêu cực để trả lại môi trường sư phạm trong sạch và tôn vinh đúng mực các thầy cô trong xã hội, được đãi ngộ xứng đáng. Đây là những quyết sách mạnh mẽ, kịp thời, nhằm mở thông điểm nghẽn và tạo điều kiện để giáo dục bứt phá. Theo các chuyên gia thống nhất tin tưởng, những chủ trương, chính sách đột phá nêu trên hội tụ lại sẽ cùng tạo nên bệ phóng vững chắc để giáo dục Việt Nam cất cánh. Với Nghị quyết 71-NQ/TW, giáo dục nước nhà đang đứng trước cơ hội lịch sử để bứt phá và không được phép bỏ lỡ vận hội này. Với định hướng đúng đắn và sự đầu tư mạnh mẽ chưa từng có, giáo dục Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa khát vọng vươn mình, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong tương lai. |
Thực hiện: Phạm Mạnh
![]() |