Môn nghệ thuật truyền thống của người Hà Nội được lưu truyền, phát triển
Trên tinh thần đó, Hà Nội cần là một địa phương đi đầu trong đẩy mạnh hướng đi này. Rất cần các công ty du lịch chuyên nghiệp có thể xác lập các mạng lưới để thành lập các tuyến/tour du lịch gắn kết giữa nhiều tổ chức cơ quan khác nhau.
Trên cơ sở nhận diện tiềm năng các làng nghề và giá trị và công dụng của sản phẩm giấy dó ở 4 tỉnh: Hà Nội, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, TS. Nguyễn Thị Thanh Hoà - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội nhận định: Hiện nay nghề làm giấy dó đang có mức độ phát triển khác ở mỗi vùng.
Giá trị giấy dó vẫn được khẳng định, tuy nhiên để bảo tồn và phát triển nghề và những sản phẩm từ giấy dó, trước hết cần khôi phục thị trường cung cấp nguyên liệu đó là vùng trồng cây dó, cây dướng khu vực miền núi. Do vậy, các tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang… cần quy hoạch vùng trồng cây dó, cây dướng để cung cấp cho Hà Nội, Bắc Ninh và các tỉnh miền núi cần sử dụng loại cây này để sản xuất giấy dó.
Mỗi người làm nghề trở thành hướng dẫn viên tại xưởng để để trực tiếp giới thiệu cho khách du lịch khi có đoàn đến tham quan, trải nghiệm nghề làm giấy dó ở làng quê mình. Chính quyền các tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Nội cần kết nối các công ty, điểm du lịch đưa khách đến tham quan, trải nghiệm tại làng nghề, du khách được tham gia vào một số khâu sản xuất giấy dó; được sáng tạo những sản phẩm handmade từ giấy dó để làm quà lưu niệm; mua các sản phẩm từ giấy dó về làm quà tặng…
|
Để giấy dó được nối dài giá trị thì cần những tour du lịch kết hợp giữa các địa phương
|
TS. Nguyễn Thị Thanh Hòa đề xuất: Doanh nghiệp lữ hành cần kết nối các điểm du lịch quanh vùng và liên vùng để thiết kế thành chương trình du lịch đa dạng, hấp dẫn; đưa các đoàn khách từ học sinh, sinh viên, khách du lịch quốc tế đến tham quan, trải nghiệm tại làng nghề. Chẳng hạn, trong chương trình du lịch Hà Nội - Cao Bằng bên cạnh việc đưa khách tới tham quan các danh lam thắng cảnh (hồ Tây), di tích lịch sử - văn hoá (chùa Trấn Quốc) sẽ dừng chân ở giới thiệu làng Yên Thái (phường Bưởi), tham quan mô hình làm nghề giấy dó ở số 189 Trích Sài, Tây Hồ. Đến Cao Bằng sau khi tham quan danh thắng như thác Bản Giốc, Suối Lê - Nin, Hang Pác Pó, động Ngườm Ngao… sẽ cho du khách trải nghiệm làm giấy dó ở làng Lũng Ó (xã Phúc Sen).
Với chương trình du lịch Hà Nội - Hà Giang, sau khi đưa khách tham quan các điểm du lịch tiêu biểu ở Hà Giang như cột cờ Lũng Cú, du thuyền trên sông Nho Quế… bên cạnh việc đưa khách đến trải nghiệm các làng của tộc người thiểu số (người H’mong), hướng dẫn viên sẽ đưa khách du lịch đến tham quan làng nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở thôn Thanh Sơn.
Chương trình du lịch Hà Nội - Bắc Ninh, sau khi đưa khách tham quan hệ thống các di tích kiến trúc nghệ thuật như chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tham quan làng nghề tranh dân gian Đông Hồ, hướng dẫn viên sẽ đưa khách đến tham quan làng nghề làm giấy dó Đống Cao để du khách hiểu được nguyên liệu làm tranh dân gian ở làng Đông Hồ do người làng Đống Cao cung cấp.
Trong bốn địa phương cùng làm nghề giấy dó thì Cao Bằng, Hà Giang cần phối hợp để quy hoạch trở thành nơi cung cấp nguyên liệu cho Hà Nội, Bắc Ninh. Ngược lại, Hà Nội, Cao Bằng, Hà Giang là địa bàn trao đổi, tiêu thụ sản phẩm giấy dó cho làng Đống Cao ở Bắc Ninh; làng Đống Cao trở thành nơi sản xuất sản phẩm cung cấp thị trường cho các tỉnh còn lại…
Như vậy, người làm nghề ở bốn địa phương này cần liên kết với nhau tạo thành mạng lưới khép kín từ nguồn nguyên liệu, sản xuất sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm… sau đó khai thác để trở thành chuỗi điểm du lịch làng nghề cùng làm giấy dó để phục vụ nhu cầu du khách quan tâm đến tham quan, trải nghiệm quy trình sản xuất hoặc sáng tạo ra sản phẩm từ chất liệu giấy dó truyền thống.
Học hỏi các mô hình quốc tế
Từ một số kinh nghiệm quốc tế về liên kết vùng trong phát triển sản phẩm công nghiệp văn hóa tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Châu Âu, ThS.NCS Nguyễn Thị Thanh Thúy - Phó Tổng biên tập TC Kinh tế & Đồ uống đã rút ra những bài học kinh nghiệm dành cho thành phố Hà Nội và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Theo bà, nhìn ra thế giới đã có nhiều đô thị thành công với quy hoạch hai bên sông, phát triển như sông Tiền Đường (Hàng Châu - Trung Quốc), sông Hàn (Seoul - Hàn Quốc), sông Thames (London - Anh), sông Seine (Paris - Pháp)... Ngay tại các tỉnh, thành phố trong nước cũng có nhiều bài học đáng quý, điển hình là tại thành phố Đà Nẵng với quan điểm xác định sông Hàn là điểm nhấn quan trọng. Những bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước được đúc rút để Hà Nội và các tỉnh liên kết vùng ĐBSH hiện thực hóa quy hoạch đô thị sông Hồng.
Các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng có thể học hỏi từ mô hình cụm ngành của các quốc gia Châu Âu, đặc biệt là trong việc phát triển các sản phẩm văn hóa đặc trưng của từng địa phương như thủ công mỹ nghệ, âm nhạc dân gian, hay nghệ thuật biểu diễn. Các tỉnh có thể liên kết để tạo ra các trung tâm văn hóa mạnh mẽ, nơi các sản phẩm văn hóa có thể được sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu ra thế giới.
Hà Nội là trung tâm sáng tạo nội dung. Với lợi thế về nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng, Hà Nội có thể tập trung vào sản xuất phim, âm nhạc, truyền thông kỹ thuật số. Các tỉnh Ninh Bình, Hà Nam cần tập trung phát triển du lịch văn hóa. Các tỉnh này có thể trở thành trung tâm du lịch văn hóa kết hợp với công nghiệp giải trí, tổ chức sự kiện nghệ thuật.
Hưng Yên, Bắc Ninh phát triển thủ công mỹ nghệ: Những địa phương này có thế mạnh về làng nghề truyền thống, có thể kết hợp với công nghệ số để phát triển thương mại điện tử cho sản phẩm văn hóa.
Một yếu tố quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa là sự hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền, các doanh nghiệp và tổ chức văn hóa. Hà Nội có thể trở thành đầu tàu trong việc kết nối các tỉnh trong vùng để xây dựng các chiến lược phát triển sản phẩm văn hóa chung.
Các hoạt động này có thể bao gồm tổ chức các sự kiện văn hóa, hội chợ triển lãm sản phẩm sáng tạo, hay các cuộc thi sáng tạo. Khuyến khích đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong ngành công nghiệp văn hóa: Hà Nội và các tỉnh trong vùng cần phát triển các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp trong ngành công nghiệp văn hóa, giống như mô hình ở Úc.
Phát triển các nền tảng số để kết nối doanh nghiệp, nghệ sĩ, nhà sản xuất nội dung trong khu vực. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào thực tế ảo (VR), trí tuệ nhân tạo (AI) trong phát triển sản phẩm văn hóa. Các tỉnh trong vùng cần tập trung vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống, giống như mô hình ở Bắc Kinh. Việc kết hợp giữa bảo tồn và phát triển sản phẩm văn hóa sẽ giúp nâng cao giá trị của di sản, đồng thời thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững.
Xây dựng thương hiệu văn hóa đặc trưng Hà Nội và các tỉnh trong vùng có thể xây dựng thương hiệu văn hóa đặc trưng cho từng địa phương, từ đó tạo dựng danh tiếng và thu hút du khách, nhà đầu tư. Việc quảng bá sản phẩm văn hóa, đặc biệt là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đặc sản ẩm thực và nghệ thuật truyền thống, sẽ góp phần nâng cao giá trị ngành công nghiệp văn hóa.
Bài học về hợp tác xây dựng thương hiệu chung: Các làng nghề như gốm Bát Tràng (Hà Nội), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), sơn mài Hạ Thái (Hà Nội), dệt lụa Nha Xá (Hà Nam) có thể kết hợp thành chuỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ vùng ĐBSH để nâng cao giá trị thương hiệu. Tạo tuyến du lịch làng nghề: Xây dựng bản đồ du lịch làng nghề, kết nối các điểm đến, giúp du khách dễ dàng khám phá các làng nghề trong khu vực. Chuyển đổi số trong phát triển thủ công mỹ nghệ: Liên kết các địa phương trong việc ứng dụng công nghệ, thương mại điện tử, bảo tồn và phát triển sản phẩm thủ công theo xu hướng hiện đại.
Bà cũng nhấn mạnh liên hệ quốc tế trong phát triển công nghiệp văn hóa ở Hà Nội và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền văn hóa địa phương, tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế, đồng thời thúc đẩy kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Tăng cường các tour tuyến trải nghiệm theo từng chủ đề cho khách du lịch
|
|
Đó là về hợp tác trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ văn hóa; hợp tác trong tổ chức sự kiện văn hóa quốc tế; hợp tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; ứng dụng công nghệ trong phát triển công nghiệp văn hóa; thúc đẩy du lịch văn hóa; khai thác di sản văn hóa và sáng tạo; bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Nhìn chung, sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa truyền thống của vùng đồng bằng sông Hồng với các xu hướng và mô hình phát triển hiện đại từ Bắc Kinh và Hàn Quốc có thể tạo ra cơ hội to lớn cho việc phát triển công nghiệp văn hóa bền vững và sáng tạo tại khu vực này.
Liên kết vùng trong phát triển công nghiệp văn hóa là xu hướng tất yếu để tối ưu hóa tài nguyên, tạo ra giá trị kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh. Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng cần học hỏi mô hình của quốc tế để xây dựng chiến lược phát triển bền vững, tận dụng lợi thế của từng địa phương nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
Liên hệ quốc tế trong phát triển công nghiệp văn hóa ở Hà Nội và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng không chỉ giúp nâng cao giá trị văn hóa, mà còn tạo ra cơ hội hợp tác kinh tế và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Các mối quan hệ quốc tế này có thể được xây dựng trên nền tảng văn hóa chung và sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng của khu vực.
Hướng đến sự phát triển bền vững
Theo Sở Công thương Hà Nội, thành phố hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trung bình một năm các làng nghề mây tre đan Hà Nội tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu. Các địa phương cung cấp nguyên liệu mây tre đan cho Hà Nội gồm các tỉnh Tây Bắc, các tỉnh miền Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, và nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Trung Quốc…
Các làng nghề gốm sứ tiêu thụ khoảng 620.000 tấn nguyên liệu, chủ yếu từ các tỉnh có nguồn cao lanh như Hải Dương, Quảng Ninh, Phú Thọ…
Do đó, liên kết vùng trong phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ nhằm tạo mối quan hệ hợp tác sản xuất cho các cơ sở công nghiệp nông thôn, trong đó có sự chuyên môn hóa sâu các mặt hàng, sản phẩm theo đúng sở trường kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất. Hơn nữa, xây dựng được mối liên kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho phát triển sản xuất mà còn giúp cho các cơ sở nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm, giúp các nghề thủ công phát triển bền vững trong điều kiện công nghiệp hóa và kinh tế thị trường.
Ông Nguyễn Trung Thành Tổng Giám đốc Tập đoàn Gốm Gia tộc Việt; Nhà sáng lập Ngàn Năm Gốm Việt, đồng sáng lập Gốm Hương Sa rút ra bài học kinh nghiệm thực tiễn về tăng cường liên kết vùng trong công nghiệp văn hoá từ sản phẩm Gốm Hương Sa là: Phát huy lợi thế so sánh của từng vùng miền; tạo ra chuỗi giá trị văn hóa - kinh tế; gắn kết cộng đồng, bảo tồn di sản văn hóa.
Ông chia sẻ: “Từ mô hình Gốm Hương Sa, chúng tôi nhận thấy khả năng nhân rộng mô hình liên kết vùng cho các ngành khác như: Lụa Hà Đông kết hợp dâu tằm Bảo Lộc - trà Tân Cương kết hợp nghệ thuật thư pháp Hán Nôm - sâm Ngọc Linh kết hợp cùng gốm phong thủy để tạo sản phẩm chăm sóc sức khỏe tinh thần.
Nhìn chung, liên kết vùng trong công nghiệp văn hóa là hướng đi tất yếu để phát triển bền vững và nâng cao vị thế văn hóa Việt trên trường quốc tế. Từ hành trình thực tế của Ngàn Năm Gốm Việt và Gốm Hương Sa, tôi nhận thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa các địa phương, doanh nghiệp, nghệ nhân và cộng đồng là yếu tố then chốt. Chúng ta cần thúc đẩy chính sách hỗ trợ liên kết vùng, đầu tư hạ tầng văn hóa, đào tạo nhân lực và phát triển thị trường văn hóa”.
Tác giả: Hương Thị - Vũ Cường - Lê Dung
|
|
|
|