eMag azine
30/08/2025 07:00
Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

30/08/2025 07:00

TTTĐ - Trong bài viết "Học tập suốt đời" ngày 2/3/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh chỉ có học tập suốt đời, mỗi cá nhân mới có thể thích nghi, làm giàu trí tuệ, hoàn thiện nhân cách và vững vàng trước mọi thách thức. Đó là chìa khóa để phát triển bản thân trong xã hội hiện đại. Nghiên cứu bài viết này, nhiều nhân sĩ, trí thức cho rằng quan điểm này không chỉ có ý nghĩa sâu sắc, là quy luật tất yếu của sự phát triển, mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ trong xây dựng một xã hội học tập.
Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

Trong bài viết "Học tập suốt đời" ngày 2/3/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh chỉ có học tập suốt đời, mỗi cá nhân mới có thể thích nghi, làm giàu trí tuệ, hoàn thiện nhân cách và vững vàng trước mọi thách thức. Đó là chìa khóa để phát triển bản thân trong xã hội hiện đại. Nghiên cứu bài viết này, nhiều nhân sĩ, trí thức cho rằng quan điểm này không chỉ có ý nghĩa sâu sắc, là quy luật tất yếu của sự phát triển, mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ trong xây dựng một xã hội học tập.

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

Triết lý giáo dục cách mạng Việt Nam đương đại được định hình ngay từ quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 và được thể hiện trong thực tiễn những thập niên sau này. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kiến tạo và tổ chức thực tiễn để hiện thực hóa triết lý này ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày nay trong kỷ nguyên công nghệ và hội nhập quốc tế, những tư tưởng của Người vẫn giữ nguyên giá trị như yếu tố nền móng nhằm thúc đẩy xã hội học tập.

Giáo dục - đào tạo hình thành và phát triển trong những hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Hệ thống giáo dục vừa là sản phẩm của thời đại, vừa là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.

Giáo dục nhà trường chỉ là một phần, một giai đoạn ngắn trong toàn bộ cuộc đời của mỗi con người. Vai trò của giáo dục ngoài nhà trường, giáo dục liên tục ngày càng lớn (gia đình, xã hội). Sự phân chia giữa các loại hình giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp ngày càng thu hẹp, trên thực tế luôn có sự giao thoa của hai loại hình này trong nhiều năm qua, do tri thức và năng lực sử dụng tri thức trở thành nhân tố quan trọng có tính quyết định đến đời sống cá nhân và lao động nghề nghiệp.

Cùng với phổ cập giáo dục là quá trình phổ cập nghề nghiệp. Giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trở thành nền tảng của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục đại học chuyển từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng, giáo dục phổ cập.

Tổng Bí thư Tô Lâm
Tổng Bí thư Tô Lâm

Giáo dục không chỉ là truyền thụ kiến thức, cung cấp thông tin mà còn hướng tới phát triển nhân cách toàn diện trên cơ sở phát triển năng lực tư duy sáng tạo và năng lực hành động để người học tự tìm tri thức, vận dụng, sử dụng tri thức, trên cơ sở đó kiến tạo tri thức mới cho bản thân hoặc xã hội; góp phần quan trọng vào quá trình chuyển hóa các loại tri thức dưới dạng tiềm năng thành năng lực thực hiện thông qua việc lựa chọn, tích hợp kiến thức, kỹ năng vào giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Như vậy, kinh tế tri thức thay đổi căn bản nền giáo dục từ quan niệm nhận thức đến hệ thống giáo dục, nhà trường, đội ngũ giáo viên, nội dung chương trình giảng dạy, đặc biệt là phương pháp giảng dạy và mô hình quản lý nhà trường. Từ đó hình thành nền giáo dục dựa trên tri thức và mô hình văn hóa nhà trường dựa trên tri thức. Những giá trị tài sản vô hình của nhà trường (danh tiếng, uy tín, vốn tri thức) sẽ không kém các giá trị tài sản hữu hình.

Mô hình các tổ chức học tập có sự thay đổi cơ bản. Đây là quá trình biến đổi từ nhà trường truyền thống sang nhà trường hiện đại thích ứng với nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức. Trong mô hình này, nhà trường sẽ trở thành nơi tổ chức học tập đa dạng và thường xuyên đổi mới. Giáo dục sẽ chủ yếu tập trung hình thành nền tảng tri thức là nền móng vững chắc cho việc phát triển học tập suốt đời, tạo cơ sở cho người học phát triển kiến thức và năng lực nhận thức cũng như phát triển tài năng. Các loại hình hoạt động của nhà trường đa dạng về tổ chức và cách thức. Hình thành các mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường với xã hội và đòi hỏi sự bình đẳng rộng rãi giữa các trường về vị thế, điều kiện và triển vọng phát triển.

Nhà trường có chức năng mới, là nơi tổ chức học tập đa dạng và thường xuyên đổi mới, có khả năng đóng góp tích cực và năng động vào quá trình phát triển của đất nước. Không gian đào tạo rộng mở, không bó hẹp trong phạm vi nhà trường như một tổ chức cụ thể ổn định mà nó được thực hiện như một hệ thống, trong đó nhà trường là chủ thể có vị trí trung tâm, luôn có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới việc làm, doanh nghiệp, các công ty công nghệ, các trường đại học và các viện nghiên cứu trong và ngoài nước.

Giáo dục - đào tạo mang đặc trưng thị trường và sự chọn lựa là đặc điểm nổi bật luôn có khả năng thích ứng với nhu cầu phục vụ của xã hội. Đặc điểm này có tác động trực tiếp đến việc xác định mục tiêu, cơ cấu ngành, nghề, nội dung và phương pháp đào tạo phù hợp với người sử dụng và điều kiện của người học. Nhà trường tôn trọng cá tính cá nhân, không gò bó người học vào một kiểu đào tạo, một hướng học vấn mà mở ra nhiều hướng, nhiều sự lựa chọn, phát triển nhiều loại hình đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cho đất nước và phù hợp với điều kiện của người học, để không ai lâm vào “ngõ cụt” trên con đường học vấn.

Ngày nay học tập suốt đời ở nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới không chỉ là một khái niệm hay một nguyên tắc đơn thuần trong học tập mà còn trở thành một trong những chìa khóa quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng mô hình xã hội học tập có nghĩa là xây dựng nền giáo dục của một xã hội học tập suốt đời toàn diện và tích hợp, một xã hội mà trong đó tất cả những yêu cầu học tập của mọi người ở mọi nơi, mọi lúc đều được đáp ứng. Mô hình xã hội học tập tuy mới ra đời nhưng đã tỏ ra là một mô hình hữu hiệu, xây dựng một xã hội học tập suốt đời dựa trên cơ sở bốn yêu cầu cơ bản hay còn gọi là bốn trụ cột mà Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đề cập đến, đó là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống với nhau và học để làm người.

Trong xã hội hiện đại, mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển cần có cơ hội và khả năng học tập liên tục để thu nhận thông tin, tiếp thu, xử lý và tạo lập, sử dụng, làm chủ tri thức để trở thành những công dân có hiểu biết rộng trong cuộc sống và trong lao động nghề nghiệp. Học tập trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi người ở trong cũng như ngoài nhà trường, bất kể sự khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội, lứa tuổi, giàu nghèo... Học tập trở thành hoạt động cơ bản của đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của mỗi cá nhân nói riêng và cả cộng đồng nói chung.

Học tập giúp con người hình thành và phát triển nhân cách, hiểu được các giá trị của cuộc sống, hiểu biết môi trường sống và làm việc của mình để sống có ích trong cộng đồng, phát triển trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp xã hội. Nếu trình độ học vấn tạo nên giá trị nền tảng của nhân cách thì trình độ chuyên môn (kỹ năng) dựa trên tri thức, sự hiểu biết tạo nên giá trị gia tăng của sức lao động, giá trị tinh thần và vật chất cho cá nhân và xã hội. Điều này trở thành nguyên lý căn bản của nền giáo dục hiện đại ở tất cả các bậc học, ngành đào tạo với các mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp.

Nền giáo dục hiện đại là nền giáo dục nhân bản, vì con người, hướng tới con người. Giáo dục góp phần vào quá trình hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của mỗi cá nhân, tinh thần và thể xác, trí tuệ và tình cảm, đạo đức và niềm tin, trình độ học vấn và năng lực hành động... Vì vậy, học tập không đơn thuần để trở thành một chuyên gia trong một lĩnh vực lao động nghề nghiệp hay có một vị trí xã hội nào đó mà trước hết là để thành người và qua đó góp phần vào sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng và của toàn xã hội.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Phòng thực hành giáo dục STEM

Nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục hiện đại là mang lại cho mọi người những cơ hội học tập và phát triển để trở thành những con người tài năng, có khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, năng động, tự khẳng định mình và góp phần cải biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thế giới hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và nền kinh tế tri thức đã và đang chứng kiến sự phát triển nhanh chóng theo cấp số nhân của tri thức nhân loại trên mọi lĩnh vực. Theo dự báo của các nhà khoa học, khối lượng tri thức của nhân loại sau năm đến bảy năm sẽ tăng gấp đôi, trong khi đó thời lượng học tập và số môn học trong nhà trường, đặc biệt là giáo dục phổ thông, giáo dục phổ cập đã và đang đòi hỏi ngoài các nội dung khoa học truyền thống cần phải bổ sung nhiều nội dung mới, cập nhật, như giáo dục công nghệ, môi trường, giáo dục giá trị, giáo dục kỹ năng sống... Con đường cơ bản để giải quyết quan hệ này là xây dựng chương trình theo quan điểm tích hợp, liên ngành và cách tiếp cận theo mục tiêu. Xác định phần cơ bản, cốt lõi chương trình và phát triển các nội dung tự chọn, mở rộng, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người học không chỉ về nội dung tri thức mà còn dạy cho người học cách thu thập, tìm kiếm, sử dụng tri thức thông qua các hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm, thực hành, phát triển năng lực tư duy, trí tuệ, cảm xúc và năng lực hành động.

Là người luôn tâm huyết với sự nghiệp khuyến học, khuyến tài, xem đây là nền tảng phát triển đất nước, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan (nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam) cho rằng bài viết "Học tập suốt đời" của Tổng Bí thư Tô Lâm là những định hướng chiến lược cho sự nghiệp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn mới của đất nước.

"Cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, về cải cách tư pháp, cải cách hành chính, nhưng nếu chỉ những vấn đề ấy mà không có con người học tập, không có con người có đầy đủ tri thức, không có con người đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chính vì vậy, cả hệ thống hội khuyến học chúng tôi rất hân hoan chào đón và đánh giá cao bài viết này, coi đây là tư tưởng chỉ đạo cho sự học và học tập suốt đời của nhân dân trong thời gian sắp tới", Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan cho biết.

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam

Chuyên gia giáo dục Tống Liên Anh, thành viên Mạng lưới chuyên gia, nhà hoạt động xã hội, học giả về giáo dục người lớn và học tập suốt đời quốc tế (PIMA) chia sẻ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ, trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa đang tái định hình cấu trúc việc làm và cách xã hội vận hành, học tập suốt đời không còn là một lựa chọn mà đã trở thành điều kiện tiên quyết để mỗi cá nhân, cộng đồng và quốc gia thích ứng và phát triển.

Theo bà Tống Liên Anh, ngày nay, việc học một lần để làm việc cả đời đã trở nên lỗi thời. Công nghệ thay đổi từng ngày đòi hỏi con người không ngừng cập nhật kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Ở nhiều lĩnh vực, những vị trí từng ổn định nay bị thay thế bởi công nghệ. Trong các nhà máy, robot sản xuất đã thay thế hàng loạt công nhân, giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhân công và tăng năng suất.

Ngành tài chính chứng kiến sự lên ngôi của các hệ thống AI có khả năng phân tích dữ liệu nhanh chóng, dần đảm nhiệm công việc của những chuyên viên phân tích cấp thấp.

Trong lĩnh vực chăm sóc khách hàng, hàng nghìn nhân viên tổng đài mất việc khi chatbot và trợ lý ảo trở nên phổ biến. Ngành báo chí cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc khi AI có thể viết tin tức, báo cáo tài chính trong thời gian ngắn, khiến nhu cầu tuyển dụng phóng viên giảm mạnh.

Thực tế khắc nghiệt này đặt ra một vấn đề: Nếu không liên tục học hỏi và phát triển kỹ năng mới, người lao động rất dễ bị đào thải. Tuy nhiên, thách thức ấy cũng mở ra cơ hội.

Khi công nghệ phát triển, nó không chỉ lấy đi công việc, còn tạo ra nhiều ngành nghề mới đòi hỏi những kỹ năng hiện đại hơn. Người lao động cần học tập không ngừng để chuẩn bị cho những công việc, ngành nghề thậm chí còn chưa xuất hiện trên thị trường lao động.

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

Học tập suốt đời không chỉ giúp cá nhân thích ứng với sự thay đổi mà còn là động lực để xã hội phát triển. Một quốc gia có lực lượng lao động giỏi về tri thức, thành thạo về kỹ năng và sẵn sàng đổi mới sẽ có vị thế vững chắc trong nền kinh tế toàn cầu.

Cuộc cách mạng công nghệ sẽ không dừng lại nhưng chúng ta có thể chọn cách bước tiếp cùng nó, cách duy nhất để không bị bỏ lại phía sau chính là không ngừng học hỏi, không ngừng tiến bộ. Chuyên gia giáo dục Tống Liên Anh cho rằng nhiều người vẫn chưa thực sự coi đó là một nhu cầu tự thân, mà chỉ xem như một phong trào hoặc hoạt động hưởng ứng chính sách. Để khắc phục tình trạng này, cần có những giải pháp đồng bộ từ chính sách, cơ chế hỗ trợ đến việc thay đổi nhận thức của từng cá nhân.

Trước hết, cần tạo ra một môi trường thuận lợi để bất cứ ai cũng có thể tiếp cận cơ hội học tập một cách linh hoạt. Công nghệ đã mở ra nhiều mô hình đào tạo mới, từ các khóa học trực tuyến, tài nguyên giáo dục mở đến các chương trình đào tạo ngắn hạn giúp người học cập nhật kiến thức liên tục. Hệ thống tín chỉ tích lũy cũng giúp người học chủ động xây dựng lộ trình học tập theo nhu cầu và điều kiện cá nhân.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng. Nhiều quốc gia đã triển khai mô hình tài khoản học tập cá nhân, cho phép công dân nhận hỗ trợ tài chính để nâng cao trình độ.

Không ít doanh nghiệp chủ động tổ chức đào tạo lại cho nhân viên, giúp họ trang bị kỹ năng mới thay vì đối mặt với nguy cơ mất việc khi công nghệ thay đổi.

Ở Việt Nam, việc xây dựng các chính sách tương tự không chỉ thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời mà còn tạo động lực để người lao động chủ động học hỏi, nâng cao năng lực bản thân.

Cùng với cơ chế hỗ trợ, cách tiếp cận giáo dục cũng cần thay đổi. Học tập không chỉ giới hạn trong trường lớp mà có thể diễn ra ở bất cứ đâu: tại nơi làm việc, trong cộng đồng, thông qua các thiết chế như thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá hay qua những trải nghiệm thực tiễn.

Khi người học nhận ra giá trị thực tế của việc học: một khóa học trực tuyến giúp họ tìm được việc tốt hơn hay một kỹ năng mới giúp họ tăng thu nhập…, họ sẽ chủ động học hỏi thay vì coi đó là nhiệm vụ ép buộc.

Truyền thông cũng cần đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và lan tỏa tinh thần học tập suốt đời. Chỉ khi mỗi cá nhân hiểu được rằng học tập suốt đời vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chính bản thân mình, thì học tập suốt đời mới đi vào thực chất và thực sự ăn sâu bám rễ vào đời sống.

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhận định, bài viết “Học tập suốt đời” của Tổng Bí thư Tô Lâm đã tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong xã hội về việc thúc đẩy học tập suốt đời.

Đúng như lời Tổng Bí thư nhấn mạnh, đây không phải vấn đề mới vì đã được khẳng định nhiều lần trong các văn kiện của Đảng và cũng đã xuất hiện nhiều lần trong những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần tự học ở mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; nhưng bài viết đã đánh giá toàn diện, phân tích sâu sắc, định hướng rõ nét về vấn đề này.

Định hướng học tập suốt đời trong bài viết của Tổng Bí thư càng có ý nghĩa đặc biệt khi gắn với bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra trên toàn cầu với quy mô, tốc độ chưa từng có; tạo ra những biến đổi nhanh chóng, khó lường.

Trong bối cảnh ấy, học tập suốt đời là yêu cầu tự thân của mỗi người, tạo cơ hội cho tất cả mọi người để có thể vượt qua thách thức của thời kỳ mới; do vậy, đây cũng là chìa khoá mở ra cánh cửa bước vào kỷ nguyên mới.

Bà Mai Hoa phân tích: Nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời đặt ra yêu cầu mỗi người phải liên tục cập nhật kiến thức mới, bổ sung kỹ năng mới để có khả năng chủ động thích ứng trong mọi hoàn cảnh.

Điều đó cũng có nghĩa là mỗi người phải duy trì trạng thái học tập liên tục, không ngừng nghỉ. Muốn vậy, rất cần xây dựng một hệ sinh thái thúc đẩy học tập suốt đời.

Hệ sinh thái đó chính là xã hội học tập thông qua một hệ thống giáo dục mở, hiện đại, liên thông. Hệ thống giáo dục mở thể hiện ở nhiều phương diện: Mở về đối tượng, mở về tài nguyên giáo dục, mở về phương pháp, mở về thời gian và địa điểm, mở về công nghệ học tập.

Với hệ thống giáo dục mở, bất cứ công dân nào có nhu cầu học tập đều tìm thấy cơ hội học tập thuận lợi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong thời gian và không gian khác nhau.

Đặc biệt, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhấn mạnh điều kiện tiên quyết để học tập suốt đời thực sự trở thành một phần trong đời sống xã hội, chính là thái độ của chủ thể.

Mỗi người phải tự nhận thức được vấn đề, từ tầm quan trọng, sự cần thiết, quyền lợi và nghĩa vụ đối với sự học của chính mình. Từ đó, có động cơ đúng đắn đối với việc tự học tập, tự bồi dưỡng, bổ sung kiến thức và nâng cao trình độ cho bản thân.

“Việc học vốn đã khó, hình thành ý thức tự học và học tập suốt đời cho mỗi người lại càng khó hơn, đòi hỏi sự quyết tâm về ý chí, sự kiên trì trong quá trình rèn luyện, sự linh hoạt về phương pháp mới có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân hiểu rằng kiến thức có được từ việc học trong nhà trường là hữu hạn, dễ bị lạc hậu; kiến thức hình thành trong quá trình tự nghiên cứu, học trong sách vở, học qua thực tiễn, học ở nhân dân mới là vô hạn, không sợ lạc hậu”, bà Nguyễn Thị Mai Hoa chia sẻ.

Mặt khác, cần hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống cơ chế chính sách. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng Luật Học tập suốt đời. Đây sẽ là văn bản pháp lý quan trọng cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo, đường lối của Đảng về học tập suốt đời và xã hội học tập; xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi công dân đối với học tập suốt đời.

Một vấn đề quan trọng được bà Mai Hoa đề cập, đó là mỗi cơ quan, tổ chức, cộng đồng cần xây dựng được cơ chế khuyến khích việc học cho cán bộ, nhân viên, để mỗi người đều xác định tinh thần muốn học, cần phải học, không thể không học. Việc đánh giá kết quả học tập, hiệu quả công việc không chỉ qua bằng cấp mà quan trọng là nhìn nhận cả quá trình tích lũy và đổi mới tri thức liên tục để thích ứng với cuộc sống và công việc. Tinh thần tự học, tự nghiên cứu, bồi dưỡng cần được khuyến khích, động viên, đưa thành tiêu chí thi đua, khen thưởng.

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

Thực tế hiện nay cho thấy, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể thay đổi hoàn toàn cấu trúc và chức năng của hệ thống kinh tế - xã hội. Nền kinh tế thế giới đang chuyển đổi dựa trên cơ sở tận dụng tối đa những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để chuyển đổi mô hình phát triển. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực ở nước ta phải có chất lượng tương ứng.

Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của “kỷ nguyên vươn mình” nhưng vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Một trong bốn nguy cơ lớn là nguy cơ tụt hậu, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), nhóm nước có thu nhập trung bình thấp là ở mức 1.136 USD đến 4.465 USD/người/năm, nhóm thu nhập trung bình cao là ở mức 4.466 USD đến 13.845 USD/người/năm, nhóm nước có thu nhập cao là vượt mức 13.845 USD/người/năm.

Bẫy thu nhập trung bình là tình trạng nhiều quốc gia đã thoát nghèo, có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ mà vẫn không thể vươn lên nhóm nước thu nhập cao.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đặt ra mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Theo Trung tâm dự báo, phân tích kinh tế độc lập CEBR của Anh, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2024 là 4.469 USD và như vậy nước ta có thể đã vừa lọt nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao.

Hiện tại, GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với khu vực, xếp thứ 6 tại Đông Nam Á, đứng sau Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Theo dự báo mang màu sắc lạc quan của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì đến năm 2026 Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 4 trong nhóm ASEAN-6 về GDP bình quân đầu người với con số 6.140 USD/người, xếp sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Năng suất lao động là yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động trong giai đoạn vừa qua chưa đủ để Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm chỉ ở mức 6% hoặc dưới 7% thì nước ta phải mất 20 - 50 năm mới bắt kịp quy mô GDP, GDP bình quân đầu người của các nước trong khu vực ASEAN-6.

Giáo dục không chỉ là truyền thụ kiến thức, cung cấp thông tin mà còn hướng tới phát triển nhân cách toàn diện

Tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động về tổng thể chất lượng vẫn chưa cao, tác phong công nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm, tính chuyên nghiệp còn yếu, khuynh hướng nắm vững về lý thuyết nhưng lại yếu về thực hành còn khá phổ biến...

Tại buổi gặp mặt các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ lão thành tiêu biểu, đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ ở khu vực phía Nam vào ngày 9/1/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: 2025 là năm rất quan trọng đối với đất nước. Ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn tới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược là đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Tổng Bí thư cho biết: Việt Nam chỉ còn 20 năm nữa để lọt vào nhóm các nước phát triển có thu nhập cao với thu nhập bình quân đầu người 15.000 USD/năm. Các nước không đợi chúng ta và ta cũng không thể nói “từ từ đợi chúng tôi với”. Nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình lúc nào cũng rình rập nếu chúng ta không tìm được con đường mới, bước đi mới.

Một trong những con đường mới ngắn nhất là nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội XIII của Đảng chủ trương: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế… Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Một khi xã hội đòi hỏi phải có nguồn nhân lực cao để phát triển đất nước thì đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đi đầu xu thế đó. Tuy nhiên, thực tế lại không hoàn toàn được như vậy,

Theo Tổng Bí thư, ở nước ta việc đào tạo, bồi dưỡng còn chạy theo số lượng mà chưa thực sự chú trọng tới chất lượng; việc tự học, thực học và học tập suốt đời của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa đạt kết quả như mong muốn; còn tình trạng học theo phong trào, sính bằng cấp mà chưa thực sự căn cứ vào đòi hỏi thực tiễn, ngại khó, ngại khổ trong học tập, không đào sâu suy nghĩ để vươn lên chinh phục những đỉnh cao trong khoa học.

Tình trạng hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chủ nghĩa cá nhân, bệnh kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân; ảnh hưởng đến tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; triệt tiêu động lực đổi mới, sáng tạo, không đủ nền tảng kiến thức và tự tin về năng lực đề xuất và thực hiện những sáng kiến, giải pháp đột phá.

Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thỏa mãn với kiến thức đã học trong các trường lớp, cơ sở đào tạo, hoặc chạy theo việc học để hoàn thiện bằng cấp đủ điều kiện thăng tiến, không chịu nghiên cứu, học hỏi thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, kiến thức, kỹ năng hội nhập và khả năng thích ứng... Một bộ phận có biểu hiện ngại học, không có khái niệm học thường xuyên, học suốt đời nên trở thành lạc hậu, bảo thủ, không thích nghi và bắt kịp với thời đại của khoa học và công nghệ 4.0.

Để mỗi cá nhân không bị bỏ lại phía sau trong cuộc tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước, và ở góc nhìn toàn cục là để quốc gia không bị tụt hậu so với thế giới, thì mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng kiến thức kể cả về chính trị lẫn chuyên môn nghiệp vụ, tri thức khoa học - kỹ thuật.

Học tập suốt đời có ý nghĩa gì? Tổng Bí thư Tô Lâm lý giải: Học để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

(Còn nữa)

PGS.TS Trần Thành Nam (Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
PGS.TS Trần Thành Nam (Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội

GIẢI PHÁP TOÀN DIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN HỌC TẬP SUỐT ĐỜI

Mặc dù đạt được nhiều tiến bộ, nhưng việc xây dựng xã hội học tập vẫn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, nhận thức về học tập suốt đời chưa đồng đều giữa các nhóm đối tượng; hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chất lượng chương trình học tập trực tuyến chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người học. Sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và tổ chức văn hóa còn hạn chế.

Để tiếp tục phát triển học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, chúng ta cần tiếp tục triển khai những giải pháp toàn diện.

Thứ nhất, tiếp tục chuyển đổi số triệt để và ứng dụng công nghệ số trong giáo dục. Tận dụng các nền tảng học tập trực tuyến, sử dụng trí tuệ nhân tạo để cá nhân hóa nội dung học tập và xây dựng kho học liệu mở sẽ giúp mở rộng cơ hội học tập cho mọi đối tượng, kể cả người cao tuổi. Song song, cần phổ cập bình dân học vụ số, bình dân học vụ AI cho cộng đồng.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách hỗ trợ tài chính và học bổng khuyến khích học tập. Bên cạnh các chủ trương rất nhân văn như miễn học phí giáo dục phổ thông, cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách như học bổng, miễn giảm học phí cho đối tượng yếu thế, tín dụng sinh viên.

Đồng thời, tăng cường các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nhân lực chất lượng cao, tham gia vào giáo dục thông qua các ưu đãi thuế, động lực để các dòng họ, cộng đồng học tập quan tâm và dành các nguồn ngân sách nuôi dưỡng hỗ trợ tài năng.

Chúng ta cũng cần tăng cường kết nối giữa giáo dục chính quy và phi chính quy với nhiều hình thức học tập linh hoạt, không gian học tập linh hoạt, công nhận năng lực linh hoạt để giúp người học có nhiều cơ hội nâng cao kỹ năng và kiến thức phù hợp với nhu cầu thực tế. Cần đẩy mạnh các phong trào khuyến học, tổ chức tuần lễ học tập suốt đời và xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập liên tục.

Quan trọng hơn, trong từng tổ chức, người lãnh đạo sẽ không chỉ đóng vai trò điều hành mà phải trở thành "lãnh đạo vì học tập" (Leadership for Learning) để thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.

Từng nhà lãnh đạo cần xây dựng tầm nhìn rõ ràng về học tập cho tổ chức của mình, thúc đẩy môi trường làm việc khuyến khích đổi mới, sáng tạo và không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn. Họ cũng phải đảm bảo rằng tổ chức có cơ chế hỗ trợ học tập suốt đời, là người truyền cảm hứng cho nhân viên, tạo ra văn hóa đổi mới và tối ưu hóa hiệu suất làm việc. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi số, nơi công nghệ không ngừng thay đổi và đòi hỏi sự thích ứng liên tục.

Du lịch - Khám phá

Thực hiện: Nguyễn Anh

Bài viết liên quan:

Bài 1 : Bài 1: Nền tảng tri thức là động lực thúc đẩy

Bài 3: Nghị quyết số 57-NQ/TW, “kim chỉ Nam” cho phát triển giáo dục

Bài 4: Những xung lực mới đậm chất nhân văn

Bài 2: “Học tập suốt đời” - chìa khóa phát triển

PV