Bài 2: Gieo chữ giữa đại ngàn, thắp sáng ước mơ cho em
| Người gieo chữ kiên định giữa đại ngàn Cán Tỷ Thầy cô miền núi - Điểm sáng nơi gian khó |
Vì thương nên ở lại...
Trong căn lớp nhỏ giữa tiết trời lạnh giá của vùng cao Dào San (Lai Châu), tiếng đọc bài của học trò vang lên đều đặn như hơi thở của núi rừng. Cô Trần Thị Thao, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Dào San, nhẹ nhàng chỉnh lại chiếc máy tính. Hình ảnh cô giáo vùng biên tận tụy với từng tiết học đã trở nên quen thuộc với những đứa trẻ nơi đây.
Cô Thao về công tác tại Dào San từ năm 2002, thời điểm ngôi trường chỉ là những dãy phòng học tạm bợ dựng bằng đất, mái cỏ gianh, bàn ghế chông chênh và hoàn toàn không có điện, nước hay sóng điện thoại. Để đến được lớp, cô cùng đồng nghiệp phải vượt qua những con đường dốc dựng đứng, nhiều đoạn trơn trượt như đổ mỡ, đặc biệt mùa mưa lũ, suối dâng cao, nước chảy xiết.
“Có những hôm mưa lớn, đường trơn trượt, tôi phải đi chân trần qua suối để đến lớp. Chỉ cần thấy học trò ngồi đủ, chăm chú học, mọi vất vả đều tan biến”, cô Thao nhớ lại.
![]() |
| Cô giáo Trần Thị Thao hướng dẫn học sinh học bài |
Khó khăn lớn nhất những ngày đầu với cô không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn là nỗi cô đơn giữa đại ngàn. Ở độ cao hơn 1.500 mét so với mực nước biển, xã Dào San quanh năm chìm trong sương mù, gió thổi hun hút qua dãy núi đá tai mèo. Nhiều đêm nằm trong khu nội trú giữa núi rừng mịt mùng, cô nghe tiếng gió rít qua mái nhà mà không khỏi chạnh lòng.
“Lúc mới lên, khó khăn bủa vây, bất đồng ngôn ngữ, thời tiết khắc nghiệt, một mình trong bản rất sợ, nên tôi từng muốn chuyển trường”, cô tâm sự. Tuy nhiên, suy nghĩ đó đã tan biến khi cô nhìn thấy học trò đến lớp chỉ mang theo nắm cơm trắng bọc trong lá, ăn cùng chút muối ớt. Gương mặt các em non nớt, chân đi dép mòn đế, ánh mắt sáng lên khi được cô dạy từng chữ, từng phép tính.
“Các em chưa biết gì, mỗi ngày tôi dạy một ít. Thương lắm, không nỡ rời và dần dần tôi yêu mảnh đất, con người nơi đây từ lúc nào không hay”, cô Thao nói.
Hơn hai thập kỷ trôi qua, nhờ sự nỗ lực của thầy cô và chính quyền địa phương, cơ sở vật chất của trường đã thay đổi đáng kể. Những lớp học tạm ngày nào đã trở thành những phòng học kiên cố, sạch đẹp. Đặc biệt, việc xây dựng phòng Tin học đã mở ra cánh cửa mới cho học sinh dân tộc thiểu số, lần đầu tiên được làm quen với bàn phím, chuột máy tính, màn hình sáng rực giữa đại ngàn.
Năm học 2025 -2026, nhà trường đẩy mạnh chuyển đổi số, cô Thao là một trong những người tiên phong thay những bài giảng truyền thống chỉ có bảng đen, phấn trắng thành những bài giảng trực quan sinh động, khiến học trò thêm thích thú.
![]() |
| Cô Trần Thị Thao luôn miệt mài với từng trang giáo án |
Nhờ sự tận tâm ấy, lớp học của cô nhiều năm liền có học sinh đạt giải trong các cuộc thi “Trạng nguyên Tiếng Việt”, “Violympic Toán và Tiếng Việt” cấp huyện, cấp quốc gia. Nhiều em sau này tiếp tục học lên, trở thành giáo viên, cán bộ xã, chiến sĩ công an, những người trẻ đang góp phần đổi thay quê hương.
Tuy nhiên, với cô Thao, phần thưởng lớn nhất chẳng phải là danh hiệu hay bằng khen. Điều giữ cô ở lại suốt 23 năm chính là ánh mắt háo hức, nụ cười rạng rỡ của học trò mỗi sáng đến lớp. “Các em phải đi bộ cả giờ đồng hồ mới đến trường nhưng chưa từng nản chí. Chính sự kiên cường ấy tiếp thêm sức mạnh cho tôi”, cô chia sẻ.
Giữa đại ngàn Dào San, nơi mây trắng vờn quanh bản nhỏ, hình ảnh cô giáo Trần Thị Thao ngày ngày gieo chữ trở thành nguồn cảm hứng đẹp đẽ. Câu chuyện của cô là minh chứng sống động cho hàng trăm giáo viên vùng cao vẫn miệt mài thắp sáng tri thức, lặng thầm nâng bước học trò, những mầm xanh nơi biên cương Tổ quốc.
Một đời gieo chữ ở Huổi Luông
Cũng ở nơi biên cương xa xôi của Tổ quốc, có một người thầy miệt mài gieo chữ suốt hơn hai thập kỷ, mang tri thức, hy vọng và cả tình yêu thương đến với những bản làng nghèo dân tộc thiểu số. Đó là câu chuyện của thầy giáo Lê Đình Tiến, giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Huổi Luông, tỉnh Lai Châu. Hành trình của anh không chỉ là câu chuyện đứng lớp, mà còn là niềm tin, tình yêu thương và sự hy sinh thầm lặng để thắp sáng ước mơ cho trẻ em vùng biên.
![]() |
| Thầy giáo Lê Đình Tiến, giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Huổi Luông, tỉnh Lai Châu |
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, tuổi thơ của anh Lê Đình Tiến gắn liền với bóng dáng tần tảo của mẹ, một cựu thanh niên xung phong và những chuyến đi biền biệt của bố, người bộ đội Cụ Hồ. Năm 1996, một vụ tai nạn giao thông bất ngờ cướp đi bố khi anh 17 tuổi, em trai mới 13 tuổi. Mẹ bệnh tật, sức yếu, phải nghỉ việc để nuôi hai con.
“Những năm tháng ấy tôi đã sớm thấu hiểu giá trị của nghị lực và tri thức. Tôi chỉ mong được trở thành thầy giáo để thay đổi tương lai cho mình, cho học trò vùng khó”, anh Tiến nhớ lại.
Tốt nghiệp sư phạm, anh Tiến bắt đầu dạy hợp đồng ở quê với đồng lương ít ỏi. Khi em trai thi đỗ Đại học Sư phạm, thương mẹ vất vả, anh viết đơn tình nguyện lên công tác tại vùng biên giới Lai Châu, một nơi anh chưa từng đặt chân nhưng trái tim người con của lính thôi thúc anh bước đi.
Đặt chân tới Huổi Luông, anh Tiến khoác ba lô, đi bộ băng rừng, vượt suối từ Pa Tần về trường. Lớp học khi ấy là nhà tre mái lá, bàn ghế từ gỗ rừng. Mùa đông cả thầy trò quây quần bên bếp củi hong ấm, mùa hè lá ranh che mát tiếng cười.
“Âm thanh tôi nhớ nhất là tiếng giã gạo trong bản, ánh bếp bập bùng trong sương và tiếng các em ríu rít đến lớp. Đó là nguồn động lực khiến tôi bám bản, bám trường”, anh Tiến kể.
![]() |
| Thầy giáo Lê Đình Tiến luôn tận tụy mỗi ngày mang tri thức cho trẻ em vùng cao |
Năm 2002, khi đang dạy lớp 5, anh Tiến nhận tin vợ anh A Sì trong bản trở dạ nhưng kiệt sức, thầy mo đã làm lễ và bảo “hết hy vọng”. Không cam chịu nhìn một mạng người rời đi, thầy đã cùng người thân của chị dùng vỏ chăn, dây thừng làm võng, mượn đèn pin, xuyên đêm mưa băng rừng gần 40 km đưa sản phụ xuống bệnh viện.
“Mồ hôi hòa với nước mưa, bàn chân rớm máu nhưng khi nghe tiếng khóc chào đời của em bé lúc 2 giờ sáng, tôi biết mọi gian khổ đều xứng đáng”, thầy giáo vùng cao xúc động kể.
Hơn 20 năm qua, anh Tiến không chỉ dạy chữ mà còn làm cầu nối yêu thương. Điểm trường nơi thầy công tác đã được Đài Tiếng nói Nhân dân TP Hồ Chí Minh và mạnh thường quân xây mới. Anh kết nối với Tour Du Lịch 1000 tặng 1.000 áo ấm, tủ đá đông trị giá 30 triệu đồng cho học sinh. Thầy giáo Tiến còn tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa như “Chợ Tết quê em”, “Ngày sách và văn hóa đọc Việt Nam”, tạo sân chơi bổ ích và nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết trong học sinh.
Ở vùng biên viễn, anh may mắn có người vợ đồng nghiệp luôn chia sẻ gian khó, hai con ngoan ngoãn, chăm học. Con gái lớn học đại học ngành Ngôn ngữ Anh, mơ ước nối nghiệp bố mẹ, đem tri thức về với học trò.
![]() |
| Thầy giáo Lê Đình Tiến không chỉ dạy chữ mà còn làm cầu nối yêu thương |
“Chính tình yêu thương từ gia đình đã giúp tôi kiên định. Sau lưng tôi là gia đình, trước mặt tôi là ánh mắt học trò, tôi không cho phép mình bỏ cuộc”, anh Tiến chia sẻ.
Từ năm 1999 đến nay, anh đã trải qua nhiều cương vị: Giáo viên, Tổ trưởng chuyên môn, Bí thư Đoàn, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Công đoàn cơ sở. Nhiều sáng kiến kinh nghiệm của anh được áp dụng thực tiễn, nâng cao chất lượng học tập. Anh nhiều lần nhận giấy khen, danh hiệu Chiến sĩ thi đua.
“Người thầy ở vùng cao không chỉ mang chữ, mà còn mang cả hy vọng và niềm tin. Dù con đường phía trước còn nhiều thử thách, tôi vẫn bước tiếp, vì tình yêu nghề, vì học trò và vì một bầu trời yêu thương nơi bản làng biên giới”, anh Tiến bày tỏ.
(Còn nữa)
Tin liên quan
Đọc thêm
Giáo dục
Đại học Sư phạm Kỹ thuật tuyên dương 80 chiến sĩ thi đua cơ sở
Giáo dục
Đại học Kinh tế Đà Nẵng vươn tầm vị thế hàng đầu khu vực
Giáo dục
15 năm vững bước, kiến tạo tương lai năng lượng
Giáo dục
AI không thể thay thế mà sáng tạo cùng giáo viên
Giáo dục
Học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam kỷ niệm ngày nhà giáo
Giáo dục
Không thể đột phá giáo dục nếu thiếu trường lớp
Giáo dục
Trường THCS Quỳnh Mai tự hào nửa thế kỷ trưởng thành, phát triển
Giáo dục
Tiếp nối truyền thống vẻ vang, vững bước kiến tạo trong kỷ nguyên số
Nhịp sống phương Nam
TP Hồ Chí Minh vinh danh 50 Nhà giáo tiêu biểu vì sự nghiệp giáo dục
Nhịp sống phương Nam







