|
LỜI TÒA SOẠN Sông Tô Lịch gắn bó với mảnh đất Thăng Long - Hà Nội cả nghìn năm với những nét thơ mộng, hữu tình. Nhưng theo thời gian, cùng với những biến cố lịch sử và guồng quay đô thị hóa, dòng sông ấy dần bị bức tử và đã trở thành dòng sông chết hàng chục năm qua giữa Hà Nội hoa lệ. Với Thủ đô nghìn năm văn hiến, nơi hội tụ linh khí đất trời, trung tâm đầu não chính trị - kinh tế - văn hóa của đất nước thì rõ ràng những dòng sông ô nhiễm với dòng nước đen kịt, nồng nặc mùi hôi thối không được phép tồn tại. Do đó, việc làm sống lại dòng sông Tô Lịch không những là nhu cầu bức thiết, cấp thiết hiện nay mà còn là trách nhiệm với lịch sử, và nhiệm vụ này đã được Tổng Bí thư Tô Lâm giao cho Hà Nội. Để hiện thực hóa chỉ đạo của người đứng đầu Đảng, thành phố đã và đang vào cuộc với tinh thần “quyết tâm, quyết liệt, quyết làm” để mang lại sự sống, sự tươi mới, trả lại sự huy hoàng và thơ mộng vốn có bậc nhất của con sông chảy giữa kinh thành Thăng Long xưa. |
I. TỪ DÒNG SÔNG THƠ TRỞ THÀNH NỖI NHỨC NHỐI Nước sông Tô vừa trong vừa mát, Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh. Dừng chèo muốn tỏ âm tình, Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu. Theo tài liệu ghi lại, sông Tô Lịch (hay còn gọi là sông Tô) vốn là dòng sông xưa thơ mộng đã được đưa vào ca dao, nước trong xanh đầy tôm cá, không chỉ có giá trị về giao thông đường thủy mà còn có giá trị về giao thương, cung cấp nước tưới tiêu cho làng xóm làm nông nghiệp hai bên bờ sông và là nguồn thủy sản nuôi sống bao người. Không chỉ thế nó còn là biểu tượng của văn hóa, lịch sử chứng kiến biết bao thăng trầm của Hà Nội từ thuở khai thiên lập địa cho đến ngày nay. Sau bao thăng trầm lịch sử, khi ngoại bang xâm lược, dòng sông như một chiến lũy bảo vệ kinh thành. Khi mùa mưa lũ đến, nó là dòng chảy tiêu thoát nước tránh cho kinh thành khỏi bị ngập lụt. Vượt lên tất cả, sông Tô Lịch là vùng mặt nước sinh thái tạo ra khí hậu tuyệt vời cho kinh thành Thăng Long xưa và cũng là nơi du thuyền thư giãn tinh thần cho cả cộng đồng.
Ngược dòng lịch sử, Tô Lịch là một tuyến đường sông quan trọng và hàng ngày người dân vẫn đánh cá, vận chuyển hàng hóa từ sông Hồng vào Tô Lịch và tỏa đi các nơi. Sông Tô Lịch có giá trị về mặt giao thông đường thủy và gần như là ranh giới tự nhiên của kinh thành Thăng Long với các vùng khác. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XIX, người Pháp lấp một phần sông Tô Lịch để quy hoạch phố phường. Từ đó và có thể trước đó nữa, khi sông Hồng thay đổi dòng chảy thì sông đã cạn dần, dân cư đông lên và các nguồn nước thải đổ trực tiếp ra những đoạn sông còn lại và rồi sông Tô Lịch bắt đầu vào giai đoạn buồn của mình đó là ô nhiễm và biến thành dòng sông chết. |
Theo thời gian, cùng với những biến cố lịch sử và guồng quay đô thị hóa, sông Tô Lịch dần bị bức tử và đã trở thành dòng sông chết hàng chục năm qua giữa Hà Nội hoa lệ.
|
Theo nhà nghiên cứu, TS.BS Quan Thế Dân (hiện đang công tác lĩnh vực y tế tư nhân), những năm 1960, về cơ bản dòng sông Tô Lịch đã chết hẳn. Dòng chảy không còn, sông biến thành một vùng đất trũng trải dài, dân làng hai bên ra trồng rau quanh năm. “Năm 1968, bố tôi mua đất ven đê La Thành, làm nhà sát cánh đồng rau trên chính dòng sông Tô Lịch, đưa cả nhà ra đó sống. Hồi đó máy bay Mỹ đang ném bom Hà Nội nên nhiều nhà cũng dọn ra ngoại ô như thế. Tôi nhớ sông Tô lúc đó chỉ còn là lạch nước nhỏ, rộng khoảng vài mét, dân làng vẫn bắc những cây tre tạm bợ làm cầu qua sông”, ông Dân kể. Cũng theo TS.BS Quan Thế Dân, người phương xa, thậm chí cả người sống ở Hà Nội nhiều năm, khi nói đến Hà Nội, thường nhắc đến khu phố cổ, coi đó như biểu tượng về Thủ đô. Nhưng phố cổ mới chỉ có vài trăm năm nay, chỉ là một phần nhỏ trong tiến trình phát triển 2.000 năm của Hà Nội. Ông cho rằng, biểu trưng cho Hà Nội, chứng kiến đô thị này từ lúc còn là những làng chài ven sông đến lúc thành kinh đô rồi tồn tại đến bây giờ, không gì chính xác hơn là dòng sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch là nhánh của sông Hồng, cửa sông Tô Lịch với sông Hồng nằm ở phố Chợ Gạo ngày nay, gần cầu Chương Dương. Sau đó sông chảy hiền hòa từ Đông sang Tây, cấp nước sông Hồng cho hồ Tây, rồi chảy đến vùng chợ Bưởi thì hợp lưu với sông Thiên Phù, cũng là một nhánh của sông Hồng; từ Nhật Tân qua cánh đồng làng Xuân La, thì quặt chảy xuống phía Nam để nhập vào sông Nhuệ mạn Thanh Trì, sông Nhuệ tiếp tục chảy xuống phía Nam để hợp vào sông Đáy rồi ra biển ở mạn Ninh Bình. “Dọc sông Tô Lịch là hơn 30 làng mạc, là cả chiều dày hàng nghìn năm của văn hóa Thăng Long. Cửa sông Tô Lịch nhận nước từ sông Hồng gọi là Hà Khẩu. Cạnh đó là đền Bạch Mã, đền thờ con ngựa trắng, đã giúp vua Lý xây thành Thăng Long. Đền cũng thờ thành hoàng làng Long Đỗ, làng cổ xưa nhất của miền đất này, nên sau này là thành hoàng của đất Thăng Long.
Dòng sông Tô Lịch uốn lượn chảy quanh chợ Cầu Đông, chợ lớn nhất đất kinh kỳ. Sau này người Pháp lấp sông để xây thành chợ Đồng Xuân, vẫn tiếp nối truyền thống là chợ đầu mối lớn nhất của cả vùng Đồng bằng sông Hồng. Từ đây sông Tô Lịch chảy chéo lên nhập vào hào nước phía ngoài thành Thăng Long, nói chính xác hơn là thành Thăng Long xây sát mép sông Tô Lịch, lấy sông làm hào nước che chở. Dòng sông tiếp tục chảy về phía hồ Tây, qua đền thờ Trấn Vũ, một trong tứ trấn của thành Thăng Long xưa. Từ đền Trấn Vũ, sông Tô Lịch chảy đến làng Trích Sài thì có nhánh đổ vào hồ Tây, gọi là Hồ Khẩu, giờ vẫn còn đình làng mang tên Hồ Khẩu. Hồ Tây đóng vai trò như hồ điều tiết chống lũ của vùng đất này. Lũ sông Hồng lên to thì nước theo sông Tô Lịch chảy vào hồ Tây, lũ sông Hồng xuống thì nước trong hồ lại theo sông Tô Lịch chảy ngược ra sông Hồng”, ông Dân cho biết. Có thể thấy, nói đến Tô Lịch, đó không chỉ là con sông mang tính thuần túy mà còn là điểm kết tinh lịch sử - văn hóa – xã hội của Thăng Long suốt hơn một nghìn năm. Dọc hai bờ sông, từng hiện hữu hàng chục làng nghề danh tiếng. Chính dòng sông Tô Lịch từng là “mạch máu” nuôi sống biết bao lớp người xung quanh hai bên bờ sông, và cũng là mạch nguồn văn hóa của bao thế hệ nam thanh nữ tú của người Hà thành. Theo ông Quan Thế Dân, ở cuối thế kỷ XIX, do sự dịch chuyển của dòng sông Hồng sang tả ngạn, các nhánh sông Hồng phía Hà Nội bị bồi lấp dần. Cùng với đó, năm 1894, người Pháp phá tường thành Hà Nội, lấp các hào nước quanh thành, lấp luôn sông Tô Lịch đoạn chảy qua khu phố cổ, trong đó có đoạn lấp hào nước thành đoạn phố Phan Đình Phùng như bây giờ. Đoạn sông Tô Lịch từ cửa Hà Khẩu cũng bị lấp, xây nên phố xá, sau này chỉ còn một vài vết tích cho biết nơi đây từng có dòng sông chảy qua như Chợ Gạo, Cầu Đông, cống chéo Hàng Lược. “Sông Tô Lịch bị lấp mất cửa nhận nước. Dòng sông bị lấp mất cửa sông sẽ dần biến thành dòng sông chết, chỉ còn là cái cống thoát nước thải. Thời xưa Hà Nội không có lỗi trong chuyện này, vì vấn đề sông Tô Lịch mà người Hà Nội đã chịu nhiều điều tiếng. Ngày nay, nói đến sông Tô Lịch là nói đến cống nước thải lộ thiên chảy giữa thành phố, bốc mùi quanh năm. Nói đến Tô Lịch là nói đến điểm đen nhức nhối về môi trường”, ông Dân chia sẻ. |
TS.BS Quan Thế Dân (phải ảnh) cho rằng, biểu trưng cho Hà Nội, chứng kiến đô thị này từ lúc còn là những làng chài ven sông đến lúc thành kinh đô rồi tồn tại đến bây giờ, không gì chính xác hơn là dòng sông Tô Lịch. |
Thực tế, sông Tô Lịch hàng chục năm qua chính là sự “ám ảnh” kinh hoàng của những người dân ven sông. Hàng ngày, họ gánh chịu mùi hôi thối bốc lên từ dòng nước đen ngòm với vô số rác thải trôi nổi. Cùng với nỗi lo ô nhiễm không khí thì nỗi lo ô nhiễm dòng sông cũng đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực với họ, bởi sống với ô nhiễm không khác gì ngày đêm đang sống với tử thần. Chia sẻ với phóng viên, bà Nguyễn Thị Thu Hà (sinh sống tại Phố Quan Hoa, phường Cầu Giấy) chia sẻ, ngày xưa, sông Tô Lịch đẹp và xanh, là ký ức đẹp của nhiều người sông xung quanh. Khung cảnh hai bên bờ sông là những hàng liễu rủ với tán lá thưa ánh nắng soi chiếu xuống dòng sông nhìn thơ mộng vô cùng. Theo bà, ngày đó đường phố còn thưa thớt, không có nhiều tòa nhà cao tầng như hiện nay. Tuy nhiên, theo thời gian, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ và nhà cao tầng bắt đầu được xây dựng nhiều hơn, hiện nay, hai bên sông Tô Lịch nhà cao tầng, nhà kiên cố được xây kín, cùng với đó là nhà hàng, quán ăn cũng mọc lên như nấm. Do đó, nước thải đổ ra nhiều hơn khiến dòng sông bị ô nhiễm từ lúc nào. “Mùa hè không khí ngột ngạt, nóng bức mà ngửi thấy mùi hôi thối bốc lên cảm giác khó chịu vô cùng. Thời đỉnh điểm của ô nhiễm nhìn dòng sông Tô Lịch chúng tôi thực sự cảm thấy ám ảnh, đi qua cứ phải bịt mũi bịt mồm không dám thở. Chúng tôi còn trêu nhau là ông bà nào mà ngã xuống đây chắc tắm cả năm cũng không hết mùi”, bà Hà chia sẻ.
Cùng chung nỗi niềm, ông Đinh Đức Tuấn (sinh sống gần phố Nguyễn Khang, phường Yên Hòa, Hà Nội) bày tỏ nỗi buồn khi sông Tô Lịch rơi vào cảnh ô nhiễm trong nhiều năm qua. Theo ông Tuấn, dòng sông Tô Lịch gắn bó với ông từ thuở thiếu thời. Mặc dù ở thời của ông, con sông đã không còn thơ mộng như thời các thế hệ trước, nhưng nước sông vẫn còn sâu, chưa bị ô nhiễm và thời đó ông cùng với đám bạn thường nô đùa vô tư trên bờ sông đến khi mệt thì mới về nhà. “Tất cả những điều đó giờ chỉ còn là ký ức đẹp. Giờ đây, chúng tôi quanh năm đối mặt với ô nhiễm, mùi hôi thối cộng với tiếng còi xe inh ỏi. Mỗi trưa hè nóng bức mà phải đối diện những thứ đó thì đúng là bức bối vô cùng. Chúng tôi mong muốn Trung ương, các cấp có thẩm quyền và thành phố Hà Nội quyết tâm hơn nữa trong việc cải tạo, làm sạch con sông này”, ông Tuấn chia sẻ. Như vậy, việc làm sống lại dòng sông Tô Lịch không chỉ là chuyện làm sạch dòng nước đã nhuốm màu ô nhiễm hay chỉnh trang kiến trúc hai bên bờ sông; mà đó còn là công cuộc tìm lại biểu tượng cho Thủ đô, khơi thông mạch nguồn văn hóa chốn kinh kỳ kiều diễm, hoa lệ. Và để hành trình đó thật sự hiệu quả, chúng ta trước hết phải tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng sông Tô Lịch bị ô nhiễm hiện nay. |
II. NGUỒN THẢI KHỔNG LỒ “BỨC TỬ” DÒNG SÔNG Câu chuyện về sông Tô Lịch ô nhiễm giữa Thủ đô “vốn lạ nhưng cũng chẳng phải là lạ”, bởi nó đã trở nên quen thuộc với người dân Hà Nội hàng chục năm nay. Con nước đen vắt qua thành phố, giữa thanh thiên bạch nhật ở các quận, huyện cũ của Hà Nội: Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Ba Đình, Hoàng Mai và Thanh Trì, rồi hợp lưu với sông Nhuệ ở phía Nam thành phố. Người dân giờ đây cảm thấy đau lòng vì con sông cổ lừng lẫy, từng cùng với sông Hồng tạo thành vòng nước huyền thoại bao bọc chở che Hà Nội, nay đã trở thành nỗi nhức nhối môi trường của Thủ đô. Nhận định về nguyên nhân gây ô nhiễm hiện nay, PGS.TS Lê Thị Phương Quỳnh (Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho rằng, sông Tô Lịch nhiều năm nay được coi là mương thoát nước chung của thành phố Hà Nội. Việc sông phải tiếp nhận nguồn nước thải sinh hoạt và công nghiệp khổng lồ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến trầm tích và chất lượng nước. Theo ước tính của Sở Tài nguyên và Môi trường (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) năm 2024, mỗi ngày 160.000m3 nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý xả xuống sông Tô Lịch cùng với đó là hàng trăm nghìn m3 nước thải công nghiệp và nước thải bệnh viện. |
Nước thải sinh hoạt thường chứa vật chất hữu cơ, nước thải công nghiệp chứa kim loại nặng, nước thải bệnh viện hòa thêm hóa chất độc hại vào hỗn hợp này; một số chất thải rắn bị đổ trái phép xuống sông, gồm cả hữu cơ và vô cơ, lơ lửng trên bề mặt hoặc chìm xuống, bồi tích thêm cho lớp bùn đáy. Tất cả như một chu trình biến một dòng sông từng có cá bơi, rau xanh mọc ở gần hạ nguồn trở thành một dòng sông chết. Trước đó, ngay từ đầu những năm 2010, sông Tô Lịch đã được cảnh báo là “bể chứa” các kim loại nặng. Nếu tính nhẩm từ Cầu Giấy đến Thanh Xuân, sông Tô Lịch đã phải dung nạp nước thải của nhiều nhà máy sản xuất nằm dọc theo dòng sông, đặc biệt là KCN Thượng Đình có 30 nhà máy, gồm 14 nhà máy cơ khí, 4 nhà máy dệt, 3 nhà máy da, 2 nhà máy hóa chất (cao su, xà phòng), 2 nhà máy thủy tinh, 1 nhà máy thuốc lá, 1 nhà máy giấy và 3 nhà máy khác. Do đó, trong trầm tích sông Tô Lịch đã xuất hiện các kim loại nặng như cadmium, chromium, đồng, nickel, chì, kẽm và càng ở gần các nhà máy thì càng có nồng độ cao hơn – một chỉ dấu không nhầm lẫn của nguồn ô nhiễm. Sự bồi tích của kim loại nặng trong dòng Tô Lịch gia tăng theo nhịp độ sản xuất và sau này chỉ tạm suy giảm khi nhiều nhà máy hoặc lần lượt được di dời khỏi nội thành, hoặc xây dựng các hệ thống xử lý nước thải. Tuy nhiên, vào giữa những năm 2010, ô nhiễm kim loại vẫn trên đà tích tụ bởi các nhà máy này đều chưa có hệ thống xử lý nước thải phù hợp khiến cho nước sông lúc đó đã ở mức không đủ chất lượng dùng cho trồng trọt và kim loại trong trầm tích (bùn) ở đáy sông đều ở mức độc hại với đời sống thủy sinh. |
Mặt khác, theo chuyên gia, dòng nước đổ ra sông Tô Lịch không chỉ hòa trộn nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp mà còn cả nước tràn từ lượng nước mưa chảy qua bề mặt đường xá, nhà cửa, công trình xây dựng… thường cuốn theo chất ô nhiễm từ chất thải nguy hại, hóa chất. Hệ thống nước thải này cũng là điểm gặp gỡ của nước đen (blackwater) và nước xám (greywater). “Nước đen chủ yếu là nước thải từ nhà vệ sinh, chứa phân và nước tiểu. Nó cũng là chỉ dấu mức độ ô nhiễm trầm trọng của cả chất thải hữu cơ, vô cơ, chất thải rắn lơ lửng, nồng độ oxy thấp, thậm chí có thể không còn, và nếu ô nhiễm quá thì có thể vi sinh thông thường cũng không sống được. Trong khi đó, nước xám là nước thải từ quá trình tắm rửa, giặt giũ, sinh hoạt. Mặc dù nước xám có mức độ ô nhiễm thấp hơn nước đen nhưng về bản chất thì cả 2 loại nước này đều là ô nhiễm và có thể chứa mầm bệnh”, TS Phạm Đức Phúc, Viện trưởng Viện Sức khỏe môi trường và Phát triển bền vững IEHSD (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) chia sẻ. Theo ông Phúc, trung bình, nước xám chiếm 68-90% trong khi nước đen chiếm 10-32% tổng nước thải sinh hoạt của một hộ gia đình, tất cả đều liên quan đến thói quen sinh hoạt và vệ sinh hằng ngày. Nếu nước đen chủ yếu chứa thành phần phốt pho, ni tơ, các hóa chất làm sạch cực mạnh và mầm bệnh thì nước xám phức tạp về thành phần hơn, bởi nó phụ thuộc vào hoạt động của hộ gia đình, số lượng nhân khẩu, độ tuổi, lối sống, thói quen sử dụng các đồ gia dụng, các sản phẩm chăm sóc cá nhân. |
Mọi thứ cứ diễn ra từ từ, và cho đến thời hiện đại thì sông Tô Lịch vốn được ví như là “sông bạc, sông vàng” giờ đã biến thành “sông đen, sông chết”. |
Như vậy, có thể thấy rằng, những hoạt động của đời sống thường nhật vô hình chung cũng tạo ra các chất gây ô nhiễm rồi những chất này theo dòng nước thải không được xử lý hòa vào dòng sông nội đô. Mọi thứ cứ diễn ra từ từ, và cho đến hiện tại thì sông Tô Lịch vốn được ví như là “sông bạc, sông vàng” giờ đã biến thành “sông đen, sông chết”. Đó chính là biểu hiện của “hội chứng dòng chảy đô thị” - hội chứng thường diễn ra ở các con sông chảy qua khu vực đô thị ở các quốc gia đang phát triển, phải đối diện với quá trình đô thị hóa “quá nóng” nhưng lại thiếu cơ sở hạ tầng phù hợp để xử lý, phân tách nước thải sinh hoạt, nước mưa hoặc nước thải công nghiệp, có nhiều tiềm năng dẫn đến những thách thức sinh thái và môi trường sống. Có thể thấy, hiện trạng ô nhiễm sông Tô Lịch nói riêng và các dòng sông nội đô Hà Nội vẫn đang là nỗi nhức nhối, ảnh hưởng đến cảnh quan, mỹ quan Thủ đô và đặc biệt là ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Do vậy, việc làm trong sạch lại dòng sông Tô Lịch không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết, bức thiết hiện nay, mà còn là trách nhiệm với lịch sử. Các cơ quan có thẩm quyền và thành phố Hà Nội cần hành động mạnh mẽ hơn nữa để cải tạo môi trường các con sông nội đô. (Còn nữa) |
|